Bạn chưa có cổ phiếu theo dõi nào! Nhấn [+] để thêm.
Thêm mã
  • VN-Index 0.00 0 (0%)
  • HNX-Index 0.00 0 (0%)
  • UPCOM-Index 0.00 0 (0%)
Tài chính ngân hàng
Động lực cho phát triển kinh tế 2018 sẽ đến từ đâu?
Đăng 18/02/2018 | 11:02 GMT+7  |   CafeF
Theo PGS.TS Tô Trung Thành, ngoài những động lực đến từ khu vực FDI, tư nhân và các biến số khác thuận lợi thì nền kinh tế cũng sẽ phải vượt qua những thách thức lớn để đạt được kết quả như kỳ vọng.

Sau những kết quả đạt được khả quan nhất trong vòng 5 năm trở lại đây, kinh tế Việt Nam trong năm 2018 được đánh giá là có nhiều cơ hội thuận lợi để duy trì tăng trưởng ở mức 6,6-6,8%. Đánh giá này cũng đã được các chuyên gia của trường ĐH Kinh tế Quốc dân đưa ra dựa trên các mô hình khác nhau và đề cập trong ấn phẩm Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên năm 2017: Tháo gỡ rào cản phát triển doanh nghiệp khu vực tư nhân.

Xoay quanh câu chuyện về tăng trưởng cũng như những cơ hội, thách thức của nền kinh tế năm 2018, nhân dịp đầu Xuân mới, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Tô Trung Thành – Trưởng phòng Quản lý Khoa học Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân.

PV: Theo ông động lực để phát triển kinh tế Việt Nam 2018 là gì?

PGS.TS Tô Trung Thành: Sẽ có các yếu tố đến từ bên trong lẫn bên ngoài.

Từ bên ngoài, thuận lợi đến từ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới tốt hơn trong năm 2018 (dự báo của IMF là 3,9% so với 3,7% năm 2017; dự báo của WB là 3,1% so với 3% năm 2017). Các dòng vốn đầu tư (cả trực tiếp và gián tiếp) có xu hướng gia tăng, và chuyển hướng nhiều hơn về các nước đang phát triển và mới nổi. Thương mại toàn cầu có xu hướng chững lại so với năm 2017, nhưng vẫn duy trì ở mức cao hơn nhiều so với năm 2016. Những yếu tố trên sẽ giữ nhịp cho thu hút dòng vốn nước ngoài và tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là ở các sản phẩm nông nghiệp chủ lực và các sản phẩm chế biến chế tạo trong năm 2018.

Từ bên trong, nếu xét từ khu vực kinh tế thì động lực tăng trưởng sẽ được duy trì chủ yếu từ khu vực FDI và được tăng cường hơn từ khu vực kinh tế tư nhân.

Việt Nam hiện vẫn là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài với môi trường đầu tư cởi mở, kinh tế chính trị ổn định, giá nhân công rẻ, tận dụng được lợi ích từ các hiệp định thương mại đã ký kết, trong bối cảnh xu hướng chuyển dòng vốn sang các nước kinh tế đang phát triển và mới nổi, cũng như quá trình chuyển dịch vị trí cuối của chuỗi sản xuất Đông Á về Việt Nam.

Trong năm 2017, Việt Nam đã thu hút được thêm khoảng 35 tỷ USD vốn FDI, đã thực hiện giải ngân ở mức kỷ lục từ trước đến nay (17,5 tỷ USD), đạt tỷ lệ trên GDP cao nhất trong khối các nước trong khu vực. Theo đó, các doanh nghiệp FDI tiếp tục đóng góp lớn cho thương mại quốc tế (chiếm trên 70% và 60% tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu), khoảng 70% tổng sản xuất công nghiệp chế biến chế tạo, và sẽ tiếp tục đóng góp khoảng 20% tổng sản lượng của nền kinh tế. Khu vực này tiếp tục là động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế.

Trong khi đó, khu vực kinh tế tư nhân trong năm 2018 sẽ có sự phát triển mạnh mẽ hơn so với các năm trước. Điều này xuất phát từ môi trường kinh doanh đã thực sự được cải thiện tốt hơn, tạo điều kiện tốt hơn cho sự phát triển của khu vực tư nhân. Năm 2017 chứng kiến những thay đổi chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ chủ yếu liên quan đến môi trường kinh doanh và khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Một trong ba nghị quyết Trung ương 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là "Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã thể hiện quan điểm về khu vực tư nhân hiện nay.

Từ các năm trước, Chính phủ cũng đã có quyết tâm cải thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp thông qua hàng loạt các Nghị quyết quan trọng nhằm hướng đến mục tiêu Chính phủ kiến tạo. Chính phủ đã đưa ra Nghị quyết 19-2017/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong năm 2017, định hướng đến năm 2020. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg để tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 35/NQ-CP theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp.

Những bước đi trên đã và đang tạo tiền đề quan trọng để kiến tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng, thân thiện, hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.

Nếu xét riêng hoạt động sản xuất và tiêu dùng thì theo ông kinh tế 2018 sẽ được thúc đẩy chủ yếu từ đâu?

PGS.TS Tô Trung Thành: Xét từ sản xuất thì tôi cho rằng dịch vụ và sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến chế tạo sẽ giữ vai trò quan trọng hơn.

 Ngành dịch vụ dự báo sẽ duy trì tốc độ gia tăng nhanh chóng như năm 2017, và với tỷ trong đến hơn 40% GDP, khu vực này tiếp tục đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, với vai trò ngày càng quan trọng của khu vực FDI, ngành sản xuất công nghiệp chế biến chế tạo sẽ tiếp tục có mức tăng trưởng vượt bậc kéo dài từ năm 2012 cho đến nay, hỗ trợ cho tốc độ tăng cao của cả ngành công ngiệp và xây dựng, trong bối cảnh ngành công nghiệp khai khoáng và khai thác tài nguyên đã „tới hạn".

Xét theo các thành tố chi tiêu, tăng trưởng năm 2018 sẽ được giữ nhịp từ nhu cầu nội địa, với mức tăng trưởng mạnh của chi tiêu tiêu dùng, do sự phát triển mạnh mẽ của thị trường bán buôn bán lẻ, thu nhập thực tế tốt hơn trong khi lạm phát thấp và ổn định, cùng với sự hỗ trợ từ tín dụng tiêu dùng nới lỏng hơn. Trong khi đó, tổng mức đầu tư xã hội dự báo sẽ duy trì như năm 2017 với sự đóng góp nhiều hơn từ khu vực ngoài Nhà nước, đặc biệt là từ khu vực kinh tế tư nhân.

Một số ý kiến quan ngại rằng lạm phát và tỷ giá năm nay sẽ khó giữ ổn định như năm 2017 trong bối cảnh thế giới, đặc biệt là Mỹ vẫn kiên định với việc tăng lãi suất. Còn ông đánh giá thế nào về các biến số này?

PGS.TS Tô Trung Thành: Lạm phát nhìn chung sẽ được kiểm soát ở mức thấp như năm 2017 (khoảng dưới 4%) do giá dầu thế giới được dự báo phục hồi ở mức độ thấp hơn năm 2017, giá lương thực thực phẩm được kiềm giữ ở mức thấp do sản lượng nông nghiệp đang có xu hướng tăng trưởng tốt trở lại, lạm phát cơ bản sẽ vẫn được duy trì ở mức thấp do mục tiêu tăng trưởng phương tiện thanh toán và tín dụng thấp hơn so với thực hiện năm 2017.

Tuy nhiên lạm phát năm 2018 sẽ chịu rủi ro tăng cao chủ yếu từ việc tăng giá các hàng hóa dịch vụ công thuộc quản lý của Nhà nước và việc tăng giá điện.  

Tỷ giá năm 2018 có thể đối diện một số rủi ro. FED sẽ tiếp tục gia tăng lãi suất nhiều lần trong năm 2018 do tăng trưởng kinh tế Mỹ phục hồi khá tốt cùng tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm. Lãi suất FED gia tăng sẽ có thể khiến đồng USD tăng giá trở lại, gây áp lực đến VND vốn đã được định giá cao khoảng hơn 20% so với năm 2009.

Bên cạnh đó, dự trữ ngoại hối mặc dù đã gia tăng mạnh nhưng vẫn còn mỏng (chỉ tương đương mức được khuyến cáo 3 tháng nhập khẩu, và đang ở mức thấp nhất so với các nước trong khu vực). Ngoài ra, dư địa tác động ổn định tỷ giá thông qua lãi suất không có nhiều do mục tiêu hỗ trợ tăng trưởng rõ ràng thông qua các chỉ tiêu được Quốc hội và Chính phủ thông qua.

Tuy vậy, tỷ giá sẽ không có những cú sốc lớn và có thể được duy trì ổn định với sự hỗ trợ lớn từ xu hướng kiều hối, dòng vốn nước ngoài sẽ tiếp tục gia tăng trong năm 2018. Bên cạnh đó, cơ chế điều hành tỷ giá cũng đã có dấu hiệu linh hoạt và chủ động hơn. Trong ngắn hạn, NHNN có đủ khả năng để can thiệp nếu vẫn muốn ổn định tỷ giá.

Nói như vậy dường như nền kinh tế sẽ được hậu thuẫn bởi toàn những thuận lợi để đạt mục tiêu 6,6 – 6,8%, có khó khăn nào phải đối mặt không thưa ông?

Tất nhiên là có. Bên cạnh những thuận lợi kể trên, nền kinh tế cũng sẽ phải vượt qua những thách thức lớn để đạt được kết quả như kỳ vọng.

Thách thức thứ nhất là mô hình tăng trưởng chưa có nhiều cải thiện, chất lượng tăng trưởng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng bền vững. Nền kinh tế tăng trưởng vẫn dựa chủ yếu vào gia tăng tổng đầu tư và tăng trưởng tín dụng (gia tăng liên tục kể từ năm 2012); tuy nhiên các chỉ số phản ánh chất lượng của các nguồn lực vẫn còn thấp. Hệ số ICOR (thể hiện chất lượng đầu tư) vẫn ở mức cao hơn bình quân giai đoạn 2005-2010 và cao hơn so với các nước khác ở giai đoạn phát triển tương đương. Năng suất lao động (thể hiện chất lượng lao động) mặc dù có tốc độ tăng khả quan hơn so với các nước trong khu vực, nhưng chưa đủ nhanh để có thể giúp Việt Nam giảm được cách biệt quá lớn về chênh lệch năng suất lao động với các nước và duy trì tăng trưởng cao và bền vững. Với mô hình tăng trưởng này, việc khó có thể gia tăng hơn nữa vốn đầu tư trong năm 2018 (hiện đang ở mức cao 33,42%, chỉ thấp hơn năm 2011 ở mức hơn 34% khi bắt đầu thực hiện tái cơ cấu) sẽ hạn chế khả năng tăng trưởng cao của nền kinh tế.

Thách thức thứ hai là nền kinh tế hiện nay đang dựa chủ yếu vào sự đóng góp của khu vực FDI, tuy nhiên khu vực này cũng đã bộc lộ những tồn tại như: i) thiếu vắng công nghệ cao và chuyển giao công nghệ không hiệu quả, ii) vấn đề ô nhiễm môi trường, iii) đóng góp vào ngân sách không tương xứng cùng những hành vi chuyển giá, iv) sản xuất của khu vực FDI vẫn mang nặng tính gia công, ở vị trí cuối của chuỗi sản xuất toàn cầu và Đông Á với giá trị gia tăng tạo ra tại Việt Nam còn rất thấp, v) luồng tiền chi trả sở hữu ra nước ngoài gia tăng mạnh có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ tiết kiệm quốc gia và khả năng đầu tư của nền kinh tế. Theo đó, đóng góp của khu vực FDI còn thiếu bền vững.

Thách thức thứ ba là dư địa tác động của các chính sách sẽ dần bị thu hẹp. Với đặc điểm tăng trưởng nêu trên, muốn đạt tăng trưởng cao trong ngắn hạn cần các chính sách quản lý tổng cầu (như nới lỏng chính sách tiền tệ, tăng cung tín dụng, gia tăng đầu tư công...), nhưng sẽ không tăng được nhiều sản lượng mà đánh đổi là bất ổn vĩ mô. Việc gia tăng mạnh cung tiền và tín dụng phục vụ mục tiêu tăng trưởng có thể gây áp lực đến rủi ro lạm phát. Bên cạnh đó, tốc độ tín dụng gia tăng nhanh trong khi tăng trưởng GDP còn thấp (cụ thể tốc độ tăng tín dụng gấp hai đến ba lần so với tốc độ tăng trưởng theo giá hiện hành trong năm 2017) cũng đã khiến tỷ lệ tín dụng/GDP tăng lên nhanh chóng (lên đến trên 130% GDP cuối năm 2017), tỷ lệ cấp tín dụng trên nguồn vốn huy động cũng tăng nhanh so với năm 2016, gây sức ép rủi ro ổn định tài chính, đặc biệt là khi vấn đề nợ xấu vẫn chưa được giải quyết triệt để.

Trong khi đó, rủi ro thâm hụt ngân sách và nợ công tiếp tục gia tăng khiến dư địa cho chính sách tài khóa không còn nhiều. Chi ngân sách gia tăng nhanh chóng (chủ yếu do chi thường xuyên) trong khi thu ngân sách khó khăn và thiếu bền vững nên thâm hụt NSNN của Việt Nam liên tục ở mức cao trong nhiều năm qua, và đứng ở mức cao nhất so với các nước trong khu vực. Do thâm hụt ngân sách gia tăng, nợ công tăng lên nhanh chóng. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/tổng thu NSNN cũng đã tiệm cận đến ngưỡng an toàn (bao gồm cả trả trong cân đối và đảo nợ), khoảng 26,7% (thông lệ quốc tế là 25%).

Là chuyên gia về lĩnh vực kinh tế vĩ mô, nếu được hỏi về khuyến nghị cho chính sách thì ông sẽ nói gì?

PGS.TS Tô Trung Thành: Trong năm 2018 Chính phủ nên đặt mục tiêu chất lượng tăng trưởng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển mạnh định hướng chính sách sang trọng cung để gia tăng mức sản lượng tiềm năng. Trước mắt, các biện pháp để thúc đẩy tăng trưởng ngắn hạn có thể được nhìn nhận từ phía gia tăng tổng cầu và tổng cung ngắn hạn.

Về phía tổng cầu, khả thi nhất đối với Chính phủ hiện nay là cần gia tăng hiệu lực chính sách, để với lưu lượng chính sách ít nhưng có hiệu quả cao hơn. Theo đó, cần: i) quyết liệt tái cơ cấu hệ thống tài chính tiền tệ (đặc biệt là vấn đề nợ xấu), ii) chính sách cần minh bạch, mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô cần được kiên định để gia tăng niềm tin chính sách, doanh nghiệp theo đó sẽ an tâm với những quyết định sản xuất kinh doanh; iii) giảm thâm hụt ngân sách, đặc biệt là giảm chi thường xuyên thay vì tăng thu (tăng gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp), tăng kỷ luật tài khóa và đảm bảo tính bền vững của nợ công.

Về phía tổng cung, có thể gia tăng tổng cung ngắn hạn nhanh chóng bằng việc giảm nhanh các chi phí nguồn lực của nền kinh tế. Ở đây chính là giảm các chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân khó phát triển là do chi phí sản xuất kinh doanh ở mức cao. Các doanh nghiệp khi tiếp cận và thuê mua các yếu tố sản xuất cũng như khi làm các nghĩa vụ thuế phí đối với Nhà nước phải trả các chi phí chính thức (chi phí tài chính và chi phí phi tài chính như giấy tờ, thủ tục, thời gian,….) và chi phí phi chính thức (chi phí lót tay, tham nhũng, tiếp cận các thị trường phi chính thức). Vì vậy, muốn giảm chi phí cho doanh nghiệp mà không ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách thì cần tập trung vào các thị trường yếu tố (như thị trường vốn, lao động, đất đai) để kiến tạo thể chế thị trường cạnh tranh, theo đó, các doanh nghiệp có thể tiếp cận các yếu tố với chi phí chính thức thấp hơn. Ngoài ra, cần làm cho việc tiếp cận các yếu tố đơn giản hơn để các chi phí phi chính thức giảm xuống.

Còn các giải pháp trung và dài hạn cần định hướng trọng cung với mục tiêu gia tăng sản lượng tiềm năng. Về cơ bản, những chính sách trọng cung cũng để phục vụ cho quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và thay đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, từ đó gia tăng năng suất, hiệu quả và chất lượng tăng trưởng. Có hai hướng cho chính sách trọng cung là:

Thứ nhất là các chính sách can thiệp: Chính phủ có những động thái tác động trực tiếp để gia tăng số lượng, đặc biệt là chất lượng các nguồn lực sản xuất, ví dụ: i) đầu tư vào nguồn lực con người (nhân lực) như giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe, ii) đầu tư vào khoa học công nghệ (công nghệ mới), iii) đầu tư vào cơ sở hạ tầng, và iv) chiến lược (chính sách) công nghiệp hướng vào một số ngành mũi nhọn với những ưu đãi lớn. Tuy nhiên, các chính sách này sẽ mất thêm chi phí và nguồn lực của Chính phủ.

Thứ hai là các chính sách dựa trên thị trường, theo đó, Chính phủ thay vì tác động trực tiếp thì nên thiên về việc tạo lập điều kiện để các lực lượng thị trường hoạt động tốt và có hiệu quả nhất. Ví dụ là các chính sách thúc đẩy cạnh tranh như giảm can thiệp điều tiết, tư nhân hóa, chống độc quyền, kiến tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các khu vực, tháo gỡ các rào cản đặc biệt là thể chế để khu vực tư nhân là động lực tăng trưởng. Với môi trường thân thiện, bình đẳng và minh bạch, bản thân các doanh nghiệp sẽ là đối tượng giúp thực hiện được mục tiêu tăng trưởng mà Chính phủ mong muốn.

Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!


Bắt mạch kinh tế Việt Nam 2018

Tài chính ngân hàng

Nhiều ưu đãi hấp dẫn khi giao dịch thanh toán quốc tế tại SHB

Tài chính ngân hàng  |   CafeF  |   24/03/2023

Với mong muốn góp phần thúc đẩy phát triển thương mại toàn cầu cũng như nắm bắt được nhu cầu của các khách hàng thường xuyên sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế, từ nay đến hết ngày 31/12/2023, Ngân hàng Sài Gòn – Hà Nội (SHB) dành nhiều ưu đãi dành cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp khi chuyển tiền quốc tế, thanh toán L/C...


Lướt sóng vàng, nhà đầu tư lỗ nặng?

Tài chính ngân hàng  |   CafeF  |   23/03/2023

Sự đổ vỡ của ngân hàng Mỹ đã khiến thị trường vàng trải qua tuần giao dịch "dậy sóng". Giá vàng thế giới tăng vọt gần 2.000 USD/ounce, kéo theo vàng miếng SJC trong nước lên gần 68 triệu đồng/lượng, vàng nhẫn cũng tăng vọt lên gần 57 triệu đồng/lượng. Tuy nhiên, giá vàng nhanh chóng hạ nhiệt, nhà đầu tư lướt sóng trước nguy cơ lỗ nặng.

OSVP CTCP OSEVEN 17,000
2TCORP CTCP Kỹ thuật Công trình Việt Nam 22,000
AAAI CTCP Bảo hiểm AAA 7,900
AAFC CTCP Xây dựng và Kiến trúc AA 3,000
ABBANK Ngân hàng TMCP An Bình 14,220
F88 Công ty Cổ phần Kinh doanh F88 10,200
ABCI CTCP Liên Doanh Quốc Tế ABC 21,000
ABCG CTCP Truyền thông ABC 10,000
ABSC CTCP Chứng khoán An Bình 30,000
AVICON CTCP Công trình Hàng không 23,667
ACCCO CTCP Tư vấn Kiến trúc và Xây dựng Tp. Hồ Chí Minh 11,400
VIGECAM TCT Vật tư Nông nghiệp - CTCP 15,000
ACSVN CTCP ACS Việt Nam 15,000
ADCC CTCP Xây dựng Trang trí Kiến trúc ADC 17,000
AGRC CTCP Địa ốc An Giang 11,000
AESC CTCP XNK Nông sản và Thưc Phẩm Sài Gòn 45,000
AGRIMEXCM CTCP XNK Nông sản Thực phẩm Cà Mau 10,000
AGTC CTCP Du lịch An Giang - ANGIANG TOURIMEX 9,500
AGTEX28 Công ty 28 - AGTEX 12,500
VNAI CTCP Bảo hiểm Hàng không 9,200
AIRIMEX CTCP xuất nhập khẩu Hàng không 27,000
AIRSERCO CTCP Cung ứng Dịch vụ Hàng không 14,000
ALTC CTCP Âu Lạc 10,000
VNWIND CTCP Điện Cơ Thống Nhất 55,000
ALSIMEXCO CTCP Cung ứng & XNK Lao động Hàng không Việt Nam 15,000
UAMC CTCP Cơ khí ôtô Uông Bí 10,000
AMPHARCO CTCP Dược Phẩm Việt Nam - Ampharco 15,000
AMVI CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt - Mỹ 18,000
APC1 CTCP An Phú 8,000
APLACO CTCP Nhựa cao cấp Hàng Không 14,500
SAPT CTCP Kinh doanh Thủy hải sản Sài Gòn 12,000
FLCS CTCP Chứng khoán FLC 15,000
ARTEXPORT CTCP Xuất nhập khẩu Thủ công mỹ nghệ 50,000
ARTEXTL CTCP Xuất Nhập khẩu Mỹ Nghệ Thăng Long 9,000
ASAC CTCP Tơ tằm Á Châu 11,000
ASECO Công ty cổ phần 32 27,750
BAROTEX CTCP Thương mại và Đầu tư Barotex Việt Nam 15,000
BASEAFOOD CTCP Chế biến XNK Thủy Sản Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 11,000
BBCC CTCP Xây dựng và Sản xuất Vật liệu Xây dựng Biên Hòa 20,000
BBDC CTCP Bao bì Dược 15,000
BC14 Công ty cổ phần Cầu số 14 50,000
BCRES CTCP Thương mại và Địa ốc Bình Chánh 19,000
BD10 CTCP Bạch Đằng 10 30,000
RTDC CTCP Phát triển Phát thanh Truyền hình 14,500
BDHC CTCP Thủy điện Bình Điền 10,000
BESEACO CTCP Thủy sản Bến Tre 12,000
BFIC CTCP Đầu tư Tài chính BIDV 2,500
BIANFISHCO CTCP Thủy sản Bình An 5,000
BICONSI CTCP Xây dựng Tư vấn Đầu tư Bình Dương 12,000
BIGAMEX CTCP May Bình Minh 14,000
TLD CTCP Đầu tư Xây dựng và Phát triển Đô thị Thăng Long 4,270
PHALE CTCP Sản xuất và Công nghệ Nhựa Pha Lê 21,200
EMC1 CTCP Cơ Điện Thủ Đức 11,000
EVNLC CTCP Bất động sản Điện lực Miền Trung 7,000
FPTS CTCP Chứng khoán FPT 12,000
HABECO Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội 60,000
HDBANK Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM 36,083
HTC1 CTCP Xi Măng Hà Tiên 1 16,000
HTT CTCP Thương mại Hà Tây 1,600
NCTS CTCP Dịch vụ Hàng hóa Nội Bài 77,000
PCC1 CTCP Xây Lắp Điện I 30,000
NT2 CTCP Điện Lực Dầu Khí Nhơn Trạch 2 21,050
PYMEPHARCO CTCP Pymepharco 45,000
SAB Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn 52,500
SHJC CTCP Thủy Điện Sê San 4A 10,000
TANCANG CTCP Đại lý Giao nhận Vận tải Xếp dỡ Tân Cảng 41,000
TCB Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam 44,500
THI CTCP Thiết Bị Điện 29,000
TPBANK Ngân hàng TMCP Tiên Phong 33,000
TRAPHACO CTCP Traphaco 115,500
VCSC CTCP Chứng Khoán Bản Việt 60,000
VICOTEX TCT Việt Thắng - CTCP 30,000
VIETJET CTCP Hàng Không VIETJET 113,000
VNPD CTCP Phát triển Điện lực Việt Nam 13,000
VPBANK Ngân Hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 43,000
ABT CTCP XNK Thủy Sản Bến Tre 33,000
AGF CTCP XNK Thủy Sản An Giang 2,600
BBC CTCP Bibica 50,100
BMC CTCP Khoáng Sản Bình Định 18,450
BMP CTCP Nhựa Bình Minh 105,300
CII CTCP ĐT Hạ Tầng Kỹ Thuật Tp.Hồ Chí Minh 15,600
CLC CTCP Cát Lợi 41,200
COM CTCP Vật Tư Xăng Dầu 31,600
DHA CTCP Hóa An 42,100
DHG CTCP Dược Hậu Giang 111,300
DIC CTCP Đầu Tư &Thương Mại DIC 1,200
DMC CTCP XNK Y Tế Domesco 64,000
DRC CTCP Cao Su Đà Nẵng 29,000
DTT CTCP Kỹ Nghệ Đô Thành 20,900
FMC CTCP Thực Phẩm Sao Ta 48,200
FPT CTCP FPT 109,000
GIL CTCP SXKD & XNK Bình Thạnh 29,400
GMC CTCP SX-TM May Sài Gòn 8,910
GMD CTCP Gemadept 80,000
HAP CTCP Tập Đoàn Hapaco 4,700
HAS CTCP Hacisco 7,000
HAX CTCP Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh 15,150
HBC CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình 7,100
HMC CTCP Kim Khí Tp.HCM - Vnsteel 11,800
HRC CTCP Cao Su Hòa Bình 43,050
CAG CTCP Cảng An Giang 8,600
BLSEAFOOD CTCP Thủy sản Bạc Liêu 3,900
HPPO CTCP Cảng Hải Phòng 15,000
VVMI CTCP Xi Măng La Hiên VVMI 7,500
MAS CTCP Dịch Vụ Hàng Không Sân Bay Đà Nẵng 34,300
MASECO CTCP Dịch Vụ Phú Nhuận 23,000
NDF CTCP Chế Biến Thực Phẩm Nông Sản XK Nam Định 900
NIFERCO CTCP Phân Lân Ninh Bình 20,000
PLI3 CTCP Xây Lắp III Petrolimex 14,000
PC3I CTCP Đầu tư Điện lực 3 15,000
PVB CTCP Bọc Ống Dầu Khí Việt Nam 23,100
SDMC CTCP Thanh Hoa - Sông Đà 15,000
SHAL CTCP Nhôm Sông Hồng 12,000
VCIE CTCP Xuất Nhập Khẩu Than - Vinacomin 35,000
TNC1 CTCP Thống Nhất 13,500
TTCO CTCP Du Lịch - Thương Mại Tây Ninh 11,000
VITHAICO CTCP Dây Cáp Điện Việt Thái 10,800
VMJC CTCP Chế Tạo Máy - Vinacomin 12,000
VMDCO CTCP Phát Triển Hàng Hải 7,900
VNCT CTCP Kinh Doanh Than Miền Bắc - Vinacomin 24,329
VNPE3 CTCP Dược Phẩm Trung Ương 3 21,000
VOSA CTCP Đại lý Hàng hải Việt Nam 11,000
VTFI CTCP Thương Mại & Đầu Tư VINATABA 10,000
WSC CTCP Bến Xe Miền Tây 24,538
ALT CTCP Văn Hóa Tân Bình 17,600
BPC CTCP Vicem Bao Bì Bỉm Sơn 9,300
CAN CTCP Đồ Hộp Hạ Long 45,700
DNP CTCP Nhựa Đồng Nai 20,300
DPC CTCP Nhựa Đà Nẵng 7,900
DXP CTCP Cảng Đoạn Xá 12,700
NHC CTCP Gạch Ngói Nhị Hiệp 28,000
PMS CTCP Cơ Khí Xăng Dầu 30,700
SAF CTCP Lương Thực Thực Phẩm Safoco 54,800
SDN CTCP Sơn Đồng Nai 28,500
SFN CTCP Dệt Lưới Sài Gòn 22,900
SGC CTCP Xuất Nhập Khẩu Sa Giang 71,000
SGH CTCP Khách Sạn Sài Gòn 24,200
SJ1 CTCP Nông Nghiệp Hùng Hậu 11,900
TMC CTCP Thương Mại XNK Thủ Đức 9,200
UNI CTCP Viễn Liên 8,700
VGP CTCP Cảng Rau Quả 24,900
VTC CTCP Viễn Thông VTC 9,000
ACB Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu 26,600
BBS CTCP VICEM Bao Bì Bút Sơn 11,000
BCC CTCP Xi Măng Bỉm Sơn 8,000
BTS CTCP Xi Măng Vicem Bút Sơn 5,400
BVS CTCP Chứng Khoán Bảo Việt 32,400
CJC CTCP Cơ Điện Miền Trung 25,800
CMC CTCP Đầu Tư CMC 6,100
CTB CTCP Chế tạo Bơm Hải Dương 24,000
ABI CTCP BH NH Nông Nghiệp Việt Nam 22,700
ACE CTCP Bê Tông Ly Tâm An Giang 36,000
ACSC CTCP Xây Lắp Thương Mại 2 24,000
SAFE CTCP Thực Phẩm Nông Sản Xuất Khẩu Sài Gòn 25,000
APFCO CTCP Nông Sản Thực Phẩm Quảng Ngãi 63,000
IHK CTCP In Hàng Không 14,500
BMJ CTCP Khoáng Sản Becamex 11,000
BC12 CTCP Cầu 12 11,000
BELCO CTCP Điện Tử Biên Hòa 12,500
BHHC CTCP Thủy điện Bắc Hà 10,457
BIDIPHAR CTCP Dược - Trang Thiết Bị Y Tế Bình Định 37,000
BLIC Tổng CTCP Bảo hiểm Bảo Long 4,000
BTTS CTCP Dịch Vụ Du Lịch Bến Thành 8,000
UDJ CTCP Phát triển Đô thị 9,400
BWACO CTCP Cấp nước Bà Rịa - Vũng Tàu 9,000
CFC CTCP Cafico Việt Nam 9,100
CAGIPHARM CTCP Dược Phẩm Cần Giờ 2,000
CAWASCO CTCP Cấp Thoát Nước Cần Thơ 8,500
CBSC CTCP Gang Thép Cao Bằng 25,000
CCIC CTCP Tư vấn và Đầu tư Xây dựng CCIC Hà Nội 8,500
CCHP CTCP Cảng Cửa Cấm Hải Phòng 8,500
CDJC CTCP Cầu Đuống 7,500
CECO CTCP Thiết Kế Công Nghiệp Hóa chất 10,500
CIEG CTCP Tập Đoàn Xây Dựng Và Thiết Bị Công Nghiệp 13,500
CHOLIMEX CTCP Xuất nhập khẩu và Đầu tư Chợ Lớn (CHOLIMEX) 10,500
CLMF CTCP Thực Phẩm Cholimex 20,000
CIPC CTCP Xây lắp và Sản xuất Công nghiệp 12,500
CLPI CTCP Đầu tư Cảng Cái Lân 13,000
COMA TCT Cơ khí Xây dựng - CTCP 10,500
COMIFOOD CTCP Lương Thực Thực Phẩm Colusa - Miliket 19,000
CONINCO CTCP Tư vấn Công nghệ Thiết Bị & Kiểm Định XD - Coninco 12,500
CPH CTCP Phục vụ Mai táng Hải Phòng 300
CPTP CTCP Nhiệt điện Cẩm Phả - TKV 10,000
CT3 CTCP ĐT & XD Công Trình 3 7,300
THR CTCP Đường sắt Thuận Hải 41,700
DPHC CTCP Đạt Phương 15,000
DBHP CTCP Thủy điện Định Bình 35,000
DECOFI CTCP Xây Dựng và Thiết Kế Số 1 8,500
DIC1 CTCP Đầu Tư Phát Triển Xây Dựng Số 1 10,500
DICTT CTCP Du Lịch & Thương Mại DIC 15,000
DBM CTCP Dược - Vật Tư Y Tế Đăk Lăk 25,500
DNMB CTCP Đầu Tư Xây Dựng & Vật Liệu Đồng Nai 10,000
DOPETCO CTCP Vận Tải Xăng Dầu Đồng Tháp 12,500
DVSG CTCP Kính Viglacera Đáp Cầu 12,000
EMEC CTCP Điện Cơ 12,000
EMMC CTCP Cơ Điện Vật Tư 11,500
FISHIPCO CTCP Cơ Khí Đóng Tàu Thủy Sản Việt Nam 12,500
FOOCOSA CTCP Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh 12,667
FORIPHARM CTCP Dược Trung ương 3 19,000
FPTOL CTCP Dịch vụ Trực tuyến FPT 105,000
Xem thêm...
  • Địa chỉ: Số 6 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội.
  • Điện thoại: (+84) 24 66873314
  • Email: contact@sanotc.com
Follow VinaCorp
Đã được cấp giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp số 1472/ GP - TTĐT Ghi rõ nguồn "VinaCorp" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này.
© Copyright 2008-2024 VINACORP.VN. All Rights Reserved - OTC Vietnam Corp