Bạn chưa có cổ phiếu theo dõi nào! Nhấn [+] để thêm.
Thêm mã
  • VN-Index 0.00 0 (0%)
  • HNX-Index 0.00 0 (0%)
  • UPCOM-Index 0.00 0 (0%)
Kinh tế quốc tế
Làm sao chỉ trong 40 năm từ những làng chài nghèo, Quảng Châu, Thâm Quyến... biến thành siêu đô thị lớn nhất thế giới, GDP lớn hơn cả Hà Lan?
Đăng 27/02/2017 | 11:56 GMT+7  |   CafeF
Số liệu của Ngân hàng thế giới (World Bank) cho thấy từ một vùng ven biển với nhiều làng chài nhỏ, khu vực PRD (bao gồm những trung tâm tài chính lớn như Hồng Kông, Ma Cao, Thẩm Quyến) này đã phát triển trở thành nơi có mật độ đô thị lớn nhất thế giới, vượt qua cả Tokyo cả về quy mô lẫn dân số.

Siêu đô thị lớn nhất thế giới

Trong những năm gần đây, mọi người thường nói đến điều thần kỳ của Trung Quốc khi tăng trưởng nhanh chóng trở thành thị trường số 1 thế giới và nền kinh tế lớn thứ 2 toàn cầu. Tuy nhiên, câu chuyện của vùng đồng bằng Châu Giang (Pearl River Delta- PRD), trung tâm của sự bùng nổ kinh tế Trung Quốc mới thực sự khiến các chuyên gia nước ngoài ngạc nhiên.

Nơi dòng Châu Giang chảy ra biển này có 9 thành phố lớn gồm: Quảng Châu, Đông Quản, Huệ Châu, Thâm Quyến, Triệu Khánh, Phật Sơn, Châu Hải, Giang Môn, Trung Sơn, nhưng cách đây 40 năm chỉ là những làng chải nhỏ. Nhưng hiện nay khu vực này là siêu đô thị chiếm tới 5% dân số Trung Quốc.

Số liệu của Ngân hàng thế giới (World Bank) khu vực PRD này đã phát triển trở thành nơi có mật độ đô thị lớn nhất thế giới, vượt qua cả Tokyo cả về quy mô lẫn dân số. Khu vực miền nam tỉnh Quảng Đông này đã chứng minh được đường lối phát triển kinh tế khá vững chắc trong vài thập kỷ qua.

Vào những năm đầu cải cách thập niên 80, đồng bằng Châu Giang chuyển mình từ một vùng nông thôn rộng lớn và thưa thớt dân cư thành một công xưởng sản xuất toàn cầu giá trị thấp. Bước sang thập niên 2000, khu vực này chuyển sang sản xuất các mặt hàng có giá trị lớn hơn nhưng đồng thời phải đối mặt với các vấn đề như chi phí lao động tăng cao, ô nhiễm môi trường...

Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 diễn ra càng khiến PRD gặp khó khi nhu cầu cho các sản phẩm xuất khẩu của khu vực này suy giảm.

Trong khi mọi người bắt đầu nghi ngờ về đường lối phát triển cũng như tương lai của PRD, kinh tế đồng bằng Châu Giang bắt đầu hồi phục ngoạn mục. Nhờ sự hậu thuẫn của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC), khu vực này đã đầu tư mạnh tay cho cơ sở hạ tầng cũng như ngành công nghiệp công nghệ cao với kỳ vọng trở thành một trong những khu vực công nghiệp hiện đại nhất trên thế giới, cạnh tranh với các vùng kinh tế như London, Paris hay Tokyo.

Nếu xét theo chỉ số GDP, đồng bằng Châu Giang hiện tương đương các nền kinh tế đứng thứ 15-18 thế giới như Mexico. Thậm chí kinh tế PRD còn lớn hơn cả Hà Lan, Thổ Nhĩ Kỳ hay Ả Rập Xê Út.

Năm 2015, chỉ số GDP danh nghĩa bình quân đầu người của PRD đạt 107.011 Nhân dân tệ (17.182 USD), tương đương quốc gia đứng thứ 39 trong bảng xếp hạng các nước giàu nhất thế giới. Trong khi đó, số liệu của World Bank cho thấy Trung Quốc chỉ đứng thứ 72 trong bảng xếp hạng này.

Trong khi quá trình đô thị hóa ở Bắc Mỹ và Châu Âu phải kéo dài hàng thập niên thì điều này lại diễn ra trong vòng vài năm ở Tây Á, nhất là những vùng như đồng bằng Châu Giang. Diện tích khu vực PRD này đã tăng từ 4.000 km2 năm 2000 lên 7.000 km2 năm 2010, đi kèm với đó là tỷ lệ đô thị hóa tăng nhanh. Chỉ trong 30 năm, tỷ lệ đô thị hóa tại đây đã tăng từ 28% lên 83%, mức tăng trưởng ấn tượng nhất Châu Á.

Hai thành phố lớn nhất của khu vực này là Quảng Châu và Thâm Quyến có mức GDP bình quân đầu người tương ứng là 21.865 USD và 22.106 USD. Cả hai đều có dân số hơn 10 triệu người.

Vậy đâu là lý do biến vùng nông thôn Quảng Châu trở thành trung tâm kinh tế của thế giới?

 Dân số tại các thành phố lớn ở PRD tăng chóng mặt

Dân số tại các thành phố lớn ở PRD tăng chóng mặt

Khởi đầu khiêm tốn

Ban đầu, vùng đồng bằng sông Châu Giang nhỏ hơn rất nhiều so với ngày nay và phải mất nhiều thế kỷ để 3 con sông lớn Đông Giang, Bắc Giang và Tây Giang bồi đắp phù sa tạo được khu vực màu mỡ như hiện tại.

Với vị trí thuận lợi gần vùng sông ngòi và giáp biển, Quảng Châu đã vô cùng nổi tiếng từ thời nhà Hán (206 trước công nguyên- 220 sau công nguyên). Khu vực này nằm trên cả 2 tuyến đường tơ lụa là đường bộ và đường biển. Giao thương hàng hóa của vùng này lan đến tận đế chế La Mã thời đó.

Mới đầu, do kỹ năng hàng hải còn yếu nên chủ yếu các cảng biển được những thương nhân nước ngoài đặt ở đảo Hải Nam. Đến thời nhà Đường, kỹ thuật hàng hải được nâng cao và Quảng Châu nghiễm nhiên trở thành nơi trung chuyển hàng hóa trung tâm của các thương nhân đến từ Đông Nam Á, Đông Á và thậm chí là cả Trung Đông.

Vào thời kỳ đó, rất nhiều thương nhân từ các nơi trên thế giới như Ả Rập, Ba Tư, Do Thái hay những dân tộc thuộc Ấn Độ, Indonesia ngày nay tụ tập tới Quảng Châu để buôn bán, qua đó biến khu vực này thành trung tâm kinh tế của thế giới.

Đồng bằng Châu Giang 1979 và...

... năm 2000

Đến thời cuối nhà Minh (1368-1644), Quảng Châu đã trở thành trung tâm thương mại lớn nhất Trung Quốc và cũng là nơi duy nhất được giao thương với nước ngoài.

Với nhu cầu thương mại lên cao như vậy, Quảng Châu đã phát triển được một hệ thống sản xuất công nghiệp khá lớn trong vùng, tập trung chủ yếu vào các mặt hàng được ưa chuộng thời đó như tơ lụa, trà, gốm sứ, đường, sắt, muối, bông...

Dẫu vậy, cuộc chiến thuốc phiện (1839-1860) khiến Trung Quốc thực hiện bế quan tỏa cảng đã ảnh hưởng nặng đến Quảng Châu cũng như Ma Cao. Việc kiểm soát nghiêm ngặt của nhà Thanh tại Quảng Châu cùng với sự mở cửa của Hồng Kông thời đó khiến các thương nhân dần rời bỏ sang Hồng Kông và Thượng Hải.

Từ vị thế là trung tâm thương mại thế giới, Quảng Châu nhanh chóng chuyển thành nơi chuyên xuất khẩu hàng hóa thô sau đó để xuất đi qua các bến cảng như Hồng Kông, Thượng Hải.

Đến thế chiến thứ II khi Nhật tấn công Trung Quốc cuối thập niên 30, nền tảng công nghiệp của Quảng Châu bị tàn phá nghiêm trọng và chỉ dần phục hồi sau khi đất nước thống nhất. Vào thập niên 50-60, nhiều ngành công nghiệp nặng được tăng cường xây dựng ở Quảng Châu theo kế hoạch Đại nhảy vọt của chính quyền Bắc Kinh.

Nhiều nhà máy nhỏ và vừa được sáp nhập thành những tổng công ty nhà nước. Dẫu vậy, tỷ lệ công nghiệp nặng của nước này chỉ tăng từ 10% năm 1949 lên 35% năm 1981.

Cảng Hồng Kông 1971 và...

... 2015

Chuyển mình

Mặc dù sự phát triển của ngành công nghiệp tại Quảng Châu thời kỳ này chưa thực sự hợp lý nhưng việc sáp nhập các nhà máy cũng như tập trung công nghiệp hóa đã tạo ra nhiều cơ sở vững chãi phát triển kinh tế sau này.

Đễn thời kỳ đổi mới, khi các dòng vốn nước ngoài cũng như từ Hồng Kông, Đài Loan chảy vào Quảng Châu, nền kinh tế khu vực này bắt đầu tỏa sáng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm xuất khẩu giá rẻ với chi phí nhân công thấp.

Nhờ sự phát triển của công nghiệp ở Thâm Quyến và Quảng Đông, nhiều ngành nghề khác trong vùng cũng nở rộ theo nhờ chuỗi giá trị của các nhà máy sản xuất cũng như sự thịnh vượng từ các dòng vốn nước ngoài đem lại.

Tuy nhiên, bước sang thế kỷ 21, dòng vốn đầu tư chính ở Quảng Châu lại là chính phủ chứ không phải nhà đầu tư nước ngoài. Nhận thức được tầm quan trọng của nền kinh tế Quảng Châu, chính quyền Bắc Kinh đã thay thế dần người nước ngoài để trở thành nhà đầu tư lớn nhất tại đây, tập trung chủ yếu vào các mảng bất động sản và phát triển doanh nghiệp địa phương.

Trong khoảng thời gian này, doanh nghiệp địa phương cũng bắt đầu xuất khẩu sang các thị trường mới nổi và tiềm năng, qua đó đóng góp thêm cho kinh tế trong vùng. Dần dần, vai trò của các công ty nước ngoài tại đây bị thay thế bởi nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa địa phương.

Hồng Kông năm 1964 và...

... năm 2016

Với khoảng 300.000 công ty nhỏ buôn bán đủ mọi mặt hàng cho các thị trường, từ Châu Phi cho đến Châu Á, từ Trung Đông cho đến Châu Âu, khu vực này đã trở thành điều thần kỳ tại Châu Á và dần lấy lại vị thế trung tâm thương mại của thế giới cách đây 1000 năm.

Dẫu vậy, các cuộc khủng hoảng năm 2008 cũng như sự trỗi dậy của các nền kinh tế dồi dào lao động giá rẻ khác đã đe dọa đến vị thế của Quảng Châu, Hồng Kông và toàn vùng PRD. May mắn thay, hầu hết những công ty tìm kiếm chi phí nhân công rẻ và rút khỏi PRD là những doanh nghiệp nước ngoài, trong khi các công ty đại phương đã tích cực chuyển đổi mô hình, nâng cấp sản xuất để thích ứng với thị trường.

Học tập theo mô hình cải cách kinh tế của Đức nhưng với tiến độ nhanh chóng hơn, đồng bằng Châu Giang chuyển đổi mô hình sang các ngành công nghệ cao, như sản xuất điện thoại di động, đồng thời xuất khẩu công nghệ, kỹ thuật và vốn của các ngành sản xuất kỹ thuật thấp sang các nền kinh tế mới nổi khác.

Chính phủ tỉnh Quảng Đông cũng đã đưa ra kế hoạch đầu tư 943 tỷ Nhân dân tệ nhằm tự động hóa các ngành nghề sản xuất và dự kiến 80% nhà máy sẽ tự động hóa vào năm 2020. Năm 2014, khu vực này cũng đã chi 672 tỷ Nhân dân tệ nhằm phát triển các vùng nông thôn, chuyển dần các nhà máy tốn lao động ra ngoại thành nhằm tạo không gian cho công nghiệp công nghệ cao.

Một ví dụ khác là Thẩm Quyến, thành phố này đã chi 4% GDP, tương đương 50 tỷ Nhân dân tệ cho nghiên cứu phát triển công nghệ vào năm 2013, nhiều hơn bất kỳ thành phố nào ở Trung Quốc. Kết quả là mảng công nghệ của thành phố này đã tăng trưởng 9,3% so với năm trước và chiếm tới 50,4% tổng sản lượng của toàn ngành công nghiệp nói chung tại đây.

Thẩm Quyến năm 1964 và...

... năm 2015

Nhờ những cố gắng như thế, nền kinh tế khu vực PRD hồi phục được nhanh chóng sau cuộc khủng hoảng 2008 và tiếp tục giữ vai trò chủ chốt trong nền kinh tế Trung Quốc.

Bên cạnh đó, kinh tế phát triển khiến đời sống người dân nâng cao, kéo theo nhu cầu tiêu dùng và hàng loạt dịch vụ khác. Thống kê gần đây cho thấy tiêu dùng tại PRD thậm chí đã vượt qua Thượng Hải hay Bắc Kinh, qua đó thúc đẩy nhiều ngành nghề phát triển khác trong vùng.

Một yếu tố nữa khiến kinh tế PRD phát triển mạnh mẽ là hệ thống đa dạng các ngành nghề làm điểm tựa vững chắc phát triển cho toàn vùng, tránh tình trạng thiên hướng quá về 1 ngành nào đó. Trong khi Hồng Kông là trung tâm tài chính thì những ngành nghề như da dày, may mặc đã được phát triển ở Quảng Châu thập niên 80.

Sau đó là ngành xe hơi, hóa dầu thập niên 2000 rồi đến các ngành công nghệ cao giai đoạn gần đây. Tất cả tổng hòa tạo thành một mạng lưới cung ứng đầy đủ cho bất kỳ nhà đầu tư nào muốn xây dựng nhà máy nơi đây.

Năm 2015, thặng dư thương mại của vùng đồng bằng Châu Giang tương ứng với 22,5% GDP của vùng, một con số vô cùng ấn tượng so với những khu vực có mức GDP tương đương.

Thẩm Quyến năm 1985 và...

... năm 2015

Thẩm Quyến năm 1991 và...

...năm 2015

Quảng Châu năm 1949 và...

... năm 2015

Quảng Châu năm 1999 và...

... năm 2015

Quảng Châu năm 1991 và...

... năm 2015

Ma Cao năm 1991 và...

... năm 2016

Ma Cao năm 1964 và...

... năm 2016

Theo Băng Tâm

Thời Đại


Kinh tế quốc tế

OSVP CTCP OSEVEN 17,000
2TCORP CTCP Kỹ thuật Công trình Việt Nam 22,000
AAAI CTCP Bảo hiểm AAA 7,900
AAFC CTCP Xây dựng và Kiến trúc AA 3,000
ABBANK Ngân hàng TMCP An Bình 14,220
F88 Công ty Cổ phần Kinh doanh F88 10,200
ABCI CTCP Liên Doanh Quốc Tế ABC 21,000
ABCG CTCP Truyền thông ABC 10,000
ABSC CTCP Chứng khoán An Bình 30,000
AVICON CTCP Công trình Hàng không 23,667
ACCCO CTCP Tư vấn Kiến trúc và Xây dựng Tp. Hồ Chí Minh 11,400
VIGECAM TCT Vật tư Nông nghiệp - CTCP 15,000
ACSVN CTCP ACS Việt Nam 15,000
ADCC CTCP Xây dựng Trang trí Kiến trúc ADC 17,000
AGRC CTCP Địa ốc An Giang 11,000
AESC CTCP XNK Nông sản và Thưc Phẩm Sài Gòn 45,000
AGRIMEXCM CTCP XNK Nông sản Thực phẩm Cà Mau 10,000
AGTC CTCP Du lịch An Giang - ANGIANG TOURIMEX 9,500
AGTEX28 Công ty 28 - AGTEX 12,500
VNAI CTCP Bảo hiểm Hàng không 9,200
AIRIMEX CTCP xuất nhập khẩu Hàng không 27,000
AIRSERCO CTCP Cung ứng Dịch vụ Hàng không 14,000
ALTC CTCP Âu Lạc 10,000
VNWIND CTCP Điện Cơ Thống Nhất 55,000
ALSIMEXCO CTCP Cung ứng & XNK Lao động Hàng không Việt Nam 15,000
UAMC CTCP Cơ khí ôtô Uông Bí 10,000
AMPHARCO CTCP Dược Phẩm Việt Nam - Ampharco 15,000
AMVI CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt - Mỹ 18,000
APC1 CTCP An Phú 8,000
APLACO CTCP Nhựa cao cấp Hàng Không 14,500
SAPT CTCP Kinh doanh Thủy hải sản Sài Gòn 12,000
FLCS CTCP Chứng khoán FLC 15,000
ARTEXPORT CTCP Xuất nhập khẩu Thủ công mỹ nghệ 50,000
ARTEXTL CTCP Xuất Nhập khẩu Mỹ Nghệ Thăng Long 9,000
ASAC CTCP Tơ tằm Á Châu 11,000
ASECO Công ty cổ phần 32 27,750
BAROTEX CTCP Thương mại và Đầu tư Barotex Việt Nam 15,000
BASEAFOOD CTCP Chế biến XNK Thủy Sản Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 11,000
BBCC CTCP Xây dựng và Sản xuất Vật liệu Xây dựng Biên Hòa 20,000
BBDC CTCP Bao bì Dược 15,000
BC14 Công ty cổ phần Cầu số 14 50,000
BCRES CTCP Thương mại và Địa ốc Bình Chánh 19,000
BD10 CTCP Bạch Đằng 10 30,000
RTDC CTCP Phát triển Phát thanh Truyền hình 14,500
BDHC CTCP Thủy điện Bình Điền 10,000
BESEACO CTCP Thủy sản Bến Tre 12,000
BFIC CTCP Đầu tư Tài chính BIDV 2,500
BIANFISHCO CTCP Thủy sản Bình An 5,000
BICONSI CTCP Xây dựng Tư vấn Đầu tư Bình Dương 12,000
BIGAMEX CTCP May Bình Minh 14,000
TLD CTCP Đầu tư Xây dựng và Phát triển Đô thị Thăng Long 5,260
PHALE CTCP Sản xuất và Công nghệ Nhựa Pha Lê 21,200
EMC1 CTCP Cơ Điện Thủ Đức 11,000
EVNLC CTCP Bất động sản Điện lực Miền Trung 7,000
FPTS CTCP Chứng khoán FPT 12,000
HABECO Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội 60,000
HDBANK Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM 36,083
HTC1 CTCP Xi Măng Hà Tiên 1 16,000
HTT CTCP Thương mại Hà Tây 1,600
NCTS CTCP Dịch vụ Hàng hóa Nội Bài 77,000
PCC1 CTCP Xây Lắp Điện I 30,000
NT2 CTCP Điện Lực Dầu Khí Nhơn Trạch 2 24,900
PYMEPHARCO CTCP Pymepharco 45,000
SAB Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn 57,100
SHJC CTCP Thủy Điện Sê San 4A 10,000
TANCANG CTCP Đại lý Giao nhận Vận tải Xếp dỡ Tân Cảng 41,000
TCB Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam 47,700
THI CTCP Thiết Bị Điện 29,000
TPBANK Ngân hàng TMCP Tiên Phong 33,000
TRAPHACO CTCP Traphaco 115,500
VCSC CTCP Chứng Khoán Bản Việt 60,000
VICOTEX TCT Việt Thắng - CTCP 30,000
VIETJET CTCP Hàng Không VIETJET 113,000
VNPD CTCP Phát triển Điện lực Việt Nam 13,000
VPBANK Ngân Hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 43,000
ABT CTCP XNK Thủy Sản Bến Tre 34,100
AGF CTCP XNK Thủy Sản An Giang 2,800
BBC CTCP Bibica 51,400
BMC CTCP Khoáng Sản Bình Định 19,400
BMP CTCP Nhựa Bình Minh 111,000
CII CTCP ĐT Hạ Tầng Kỹ Thuật Tp.Hồ Chí Minh 19,150
CLC CTCP Cát Lợi 39,400
COM CTCP Vật Tư Xăng Dầu 33,450
DHA CTCP Hóa An 49,400
DHG CTCP Dược Hậu Giang 116,400
DIC CTCP Đầu Tư &Thương Mại DIC 1,400
DMC CTCP XNK Y Tế Domesco 63,000
DRC CTCP Cao Su Đà Nẵng 33,800
DTT CTCP Kỹ Nghệ Đô Thành 21,000
FMC CTCP Thực Phẩm Sao Ta 49,500
FPT CTCP FPT 116,700
GIL CTCP SXKD & XNK Bình Thạnh 38,800
GMC CTCP SX-TM May Sài Gòn 9,000
GMD CTCP Gemadept 79,700
HAP CTCP Tập Đoàn Hapaco 4,910
HAS CTCP Hacisco 7,440
HAX CTCP Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh 15,300
HBC CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình 8,710
HMC CTCP Kim Khí Tp.HCM - Vnsteel 13,200
HRC CTCP Cao Su Hòa Bình 51,100
CAG CTCP Cảng An Giang 7,500
BLSEAFOOD CTCP Thủy sản Bạc Liêu 3,900
HPPO CTCP Cảng Hải Phòng 15,000
VVMI CTCP Xi Măng La Hiên VVMI 7,500
MAS CTCP Dịch Vụ Hàng Không Sân Bay Đà Nẵng 35,200
MASECO CTCP Dịch Vụ Phú Nhuận 23,000
NDF CTCP Chế Biến Thực Phẩm Nông Sản XK Nam Định 900
NIFERCO CTCP Phân Lân Ninh Bình 20,000
PLI3 CTCP Xây Lắp III Petrolimex 14,000
PC3I CTCP Đầu tư Điện lực 3 15,000
PVB CTCP Bọc Ống Dầu Khí Việt Nam 24,300
SDMC CTCP Thanh Hoa - Sông Đà 15,000
SHAL CTCP Nhôm Sông Hồng 12,000
VCIE CTCP Xuất Nhập Khẩu Than - Vinacomin 35,000
TNC1 CTCP Thống Nhất 13,500
TTCO CTCP Du Lịch - Thương Mại Tây Ninh 11,000
VITHAICO CTCP Dây Cáp Điện Việt Thái 10,800
VMJC CTCP Chế Tạo Máy - Vinacomin 12,000
VMDCO CTCP Phát Triển Hàng Hải 7,900
VNCT CTCP Kinh Doanh Than Miền Bắc - Vinacomin 24,329
VNPE3 CTCP Dược Phẩm Trung Ương 3 21,000
VOSA CTCP Đại lý Hàng hải Việt Nam 11,000
VTFI CTCP Thương Mại & Đầu Tư VINATABA 10,000
WSC CTCP Bến Xe Miền Tây 24,538
ALT CTCP Văn Hóa Tân Bình 14,500
BPC CTCP Vicem Bao Bì Bỉm Sơn 8,600
CAN CTCP Đồ Hộp Hạ Long 49,900
DNP CTCP Nhựa Đồng Nai 20,500
DPC CTCP Nhựa Đà Nẵng 8,500
DXP CTCP Cảng Đoạn Xá 14,300
NHC CTCP Gạch Ngói Nhị Hiệp 32,100
PMS CTCP Cơ Khí Xăng Dầu 31,000
SAF CTCP Lương Thực Thực Phẩm Safoco 60,900
SDN CTCP Sơn Đồng Nai 28,200
SFN CTCP Dệt Lưới Sài Gòn 18,200
SGC CTCP Xuất Nhập Khẩu Sa Giang 72,000
SGH CTCP Khách Sạn Sài Gòn 24,200
SJ1 CTCP Nông Nghiệp Hùng Hậu 12,000
TMC CTCP Thương Mại XNK Thủ Đức 9,600
UNI CTCP Viễn Liên 8,800
VGP CTCP Cảng Rau Quả 26,000
VTC CTCP Viễn Thông VTC 9,800
ACB Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu 28,450
BBS CTCP VICEM Bao Bì Bút Sơn 11,000
BCC CTCP Xi Măng Bỉm Sơn 9,400
BTS CTCP Xi Măng Vicem Bút Sơn 5,500
BVS CTCP Chứng Khoán Bảo Việt 33,500
CJC CTCP Cơ Điện Miền Trung 25,800
CMC CTCP Đầu Tư CMC 6,100
CTB CTCP Chế tạo Bơm Hải Dương 22,900
ABI CTCP BH NH Nông Nghiệp Việt Nam 25,000
ACE CTCP Bê Tông Ly Tâm An Giang 36,000
ACSC CTCP Xây Lắp Thương Mại 2 24,000
SAFE CTCP Thực Phẩm Nông Sản Xuất Khẩu Sài Gòn 25,000
APFCO CTCP Nông Sản Thực Phẩm Quảng Ngãi 63,000
IHK CTCP In Hàng Không 17,000
BMJ CTCP Khoáng Sản Becamex 10,300
BC12 CTCP Cầu 12 11,000
BELCO CTCP Điện Tử Biên Hòa 12,500
BHHC CTCP Thủy điện Bắc Hà 10,457
BIDIPHAR CTCP Dược - Trang Thiết Bị Y Tế Bình Định 37,000
BLIC Tổng CTCP Bảo hiểm Bảo Long 4,000
BTTS CTCP Dịch Vụ Du Lịch Bến Thành 8,000
UDJ CTCP Phát triển Đô thị 9,800
BWACO CTCP Cấp nước Bà Rịa - Vũng Tàu 9,000
CFC CTCP Cafico Việt Nam 9,100
CAGIPHARM CTCP Dược Phẩm Cần Giờ 2,000
CAWASCO CTCP Cấp Thoát Nước Cần Thơ 8,500
CBSC CTCP Gang Thép Cao Bằng 25,000
CCIC CTCP Tư vấn và Đầu tư Xây dựng CCIC Hà Nội 8,500
CCHP CTCP Cảng Cửa Cấm Hải Phòng 8,500
CDJC CTCP Cầu Đuống 7,500
CECO CTCP Thiết Kế Công Nghiệp Hóa chất 10,500
CIEG CTCP Tập Đoàn Xây Dựng Và Thiết Bị Công Nghiệp 13,500
CHOLIMEX CTCP Xuất nhập khẩu và Đầu tư Chợ Lớn (CHOLIMEX) 10,500
CLMF CTCP Thực Phẩm Cholimex 20,000
CIPC CTCP Xây lắp và Sản xuất Công nghiệp 12,500
CLPI CTCP Đầu tư Cảng Cái Lân 13,000
COMA TCT Cơ khí Xây dựng - CTCP 10,500
COMIFOOD CTCP Lương Thực Thực Phẩm Colusa - Miliket 19,000
CONINCO CTCP Tư vấn Công nghệ Thiết Bị & Kiểm Định XD - Coninco 12,500
CPH CTCP Phục vụ Mai táng Hải Phòng 300
CPTP CTCP Nhiệt điện Cẩm Phả - TKV 10,000
CT3 CTCP ĐT & XD Công Trình 3 7,300
THR CTCP Đường sắt Thuận Hải 41,700
DPHC CTCP Đạt Phương 15,000
DBHP CTCP Thủy điện Định Bình 35,000
DECOFI CTCP Xây Dựng và Thiết Kế Số 1 8,500
DIC1 CTCP Đầu Tư Phát Triển Xây Dựng Số 1 10,500
DICTT CTCP Du Lịch & Thương Mại DIC 15,000
DBM CTCP Dược - Vật Tư Y Tế Đăk Lăk 25,500
DNMB CTCP Đầu Tư Xây Dựng & Vật Liệu Đồng Nai 10,000
DOPETCO CTCP Vận Tải Xăng Dầu Đồng Tháp 12,500
DVSG CTCP Kính Viglacera Đáp Cầu 12,000
EMEC CTCP Điện Cơ 12,000
EMMC CTCP Cơ Điện Vật Tư 11,500
FISHIPCO CTCP Cơ Khí Đóng Tàu Thủy Sản Việt Nam 12,500
FOOCOSA CTCP Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh 12,667
FORIPHARM CTCP Dược Trung ương 3 19,000
FPTOL CTCP Dịch vụ Trực tuyến FPT 105,000
Xem thêm...
  • Địa chỉ: Số 6 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội.
  • Điện thoại: (+84) 24 66873314
  • Email: contact@sanotc.com
Follow VinaCorp
Đã được cấp giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp số 1472/ GP - TTĐT Ghi rõ nguồn "VinaCorp" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này.
© Copyright 2008-2024 VINACORP.VN. All Rights Reserved - OTC Vietnam Corp