Với tập quán kinh tế Việt Nam và trong điều kiện hệ thống pháp luật về phá sản chưa hoàn thiện, việc “khai tử” một doanh nghiệp đã khó, giải thể một ngân hàng còn khó hơn thế nhiều lần. Theo quy định, một ngân hàng ra đời phải được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp phép sau quá trình thẩm định nghiêm ngặt. Và quá trình cho phá sản sẽ phải thận trọng không kém bởi còn liên quan tới quyền lợi của cổ đông, người gửi tiền… và đặc biệt là sự an toàn của cả hệ thống.
Tuy Luật Phá sản 2014 đã có hiệu lực được gần 2 năm, khắc phục các bất cập đã nảy sinh trong quá trình thực hiện Luật Phá sản 2004 và tạo lập cơ chế mới xử lý phá sản doanh nghiệp hiệu quả hơn, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan cũng như đã tạo ra được hành lang pháp lý cho việc phá sản ngân hàng,tính đến thời điểm này, NHNN vẫn chưa phải áp dụng biện pháp phá sản đối với bất kỳ ngân hàng yếu kém nào.
Tại các nước trên thế giới, việc phá sản ngân hàng không chỉ xảy ra tại Mỹ hay Châu Âu với số lượng có thể lên đến hàng trăm ngân hàng phá sản mỗi năm, mà tại Châu Á trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, hàng loạt ngân hàng trên thị trường này cũng đã bị phá sản một cách nhanh chóng.
Trong nhiều trường hợp, việc đóng cửa ngân hàng có thể rơi vào một trong biện pháp khác nhau tuỳ thuộc vào cách xử lý của từng Quốc gia, chẳng hạn như đa số ngân hàng yếu kém bị yêu cầu sáp nhập bắt buộc (Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia) hay bị mua lại bởi các đối tác nước ngoài (Thái Lan, Nhật Bản) hay một số ngân hàng nhận được sự hỗ trợ từ chính phủ và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thông qua các ngân hàng trung gian, hoặc thông qua các công ty mua bán tài sản (AMC) (Indonesia, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc…).
Tại Việt Nam, Luật Phá sản 2014 đã dành hẳn 1 chương với 8 Điều để quy định về thủ tục phá sản tổ chức tín dụng (TCTD), tuy nhiên để thực hiện được các quy định này trên thực tế thì cần phải có hướng dẫn cụ thể của Chính phủ, NHNN cũng như của các Bộ, ngành có liên quan.Một trong các tác động lớn nhất khi thực hiện hiện phá sản ngân hàng là quyền lợi của khách hàng sẽ được bảo đảm ra sao? Để trả lời cho câu hỏi này, bài viết sẽ phân tích những quyền lợi nào của khách hàng bị ảnh hưởng và quyền lợi đó nên được bảo vệ ra sao khi tiến hành phá sản ngân hàng.
Quyền lợi của người gửi tiền sẽ bị ảnh hưởng ra sao khi phá sản ngân hàng?
Theo số liệu thống kê của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) trên toàn hệ thống ngân hàng, về số tiền bảo hiểm, từ năm 2002, có đến 80% số người gửi tiền trong tài khoản là 50 triệu đồng, 20% còn lại ở mức trên 50 triệu đồng. Tại nhiều nước trên thế giới, BHTG phải gấp ít nhất ba lần thu nhập bình quân trên đầu người ở nước đó. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người tại thời điểm năm 2002 là gần bằng 6,7 triệu đồng, như vậy số tiền bảo hiểm của chúng ta đã cao gấp 7,5 lần thu nhập bình quân trên đầu người.
NHNN đã ban hành TT số 24/2014/TT-NHNN quy định vẫn chỉ áp dụng mức cũ là 50 triệu đồng/món gửi, được cho là rất thấp so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, trong khi đó theo số liệu của Tổng cục thống kê, thu nhập bình quân đầu người vào cuối năm 2015 là 45,7 triệu đồng. Do đó, số tiền bảo hiểm này là chưa phù hợp trong điều kiện mới hiện nay. Ngoài ra, theo số liệu của NHNN, tỷ trọng tiền gửi có số tiền dưới 50 triệu vào năm 2015 chỉ chiếm 19% tổng lượng tiền gửi trong năm. Như vậy, trong trường hợp các ngân hàng bị phá sản thì trên 81% tổng lượng tiền gửi nhiều khả năng sẽ không được chi trả đủ 100% cả gốc và lãi.
Ngoài ra, luật phá sản 2014 quy định về thứ tự phân chia tài sản trong phá sản ngân hàng được thực hiện theo trình tự ưu tiên như sau: (i) Chi phí phá sản; (ii) Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết; (iii) Khoản tiền gửi; khoản tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại ngân hàng phá sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và hướng dẫn của NHNN; (iv) Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ. Trường hợp giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ nêu trên, các đối tượng thuộc cùng một thứ tự ưu tiên được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ.
Theo thứ tự trên, khoản tiền gửi của khách hàng cũng chỉ được ưu tiên thanh toán ở vị trí thứ 3. Điều này là hơi rủi ro khi mà ngân hàng thực hiện phá sản thì phần tài sản thực tế thu được sẽ thấp hơn so với giá trị trên sổ sách kế toán.
Ngoài hai thiệt hại trên, thì khách hàng gửi tiền tốn rất nhiều chi phi khác khi ngân hàng mà họ đang giao dịch phá sản như: thời gian chuyển đổi tài khoản tiền gửi, chênh lệch lãi suất, sản phẩm dịch vụ ngân hàng cũng khác biệt giữa các ngân hàng khác nhau...
Cách thức bảo vệ người gửi tiền ra sao cho hiệu quả?
Trong trường hợp tiến hành cho phá sản các ngân hàng yếu kém với điều kiện bảo vệ cao nhất quyền lợi của người gửi tiền và làm tăng tính ổn định của hệ thống ngân hàng cũng như phát triển bền vững nền kinh tế, các cơ quan chức năng nên thực hiện các giải pháp sau một cách có lộ trình:
Tăng mức bảo hiểm tiền gửi
Thay đổi hạn mức trả tiền bảo hiểm là một phần không thể thiếu trong tổng thể giải pháp chính sách BHTG nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền, tạo tâm lý yên tâm, qua đó hạn chế tình trạng rút tiền khỏi ngân hàng khi có thông tin về ngân hàng phá sản trong thời gian tới.
Đặc biệt, trong giai đoạn khủng hoảng tài chính bắt đầu từ năm 2008 vừa qua, có 48 quốc gia và vùng lãnh thổ thực hiện một số giải pháp mới trong chính sách hạn mức trả tiền bảo hiểm. Trong đó, có 19 nước áp dụng hình thức bảo hiểm toàn bộ đối với khách hàng gửi tiền, 23 nước tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm không xác định thời hạn kết thúc (chính sách hạn mức mới dài hạn) và 6 nước tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm tạm thời. Đối với riêng khu vực châu Á, các quốc gia tại châu lục này duy trì mức độ bảo vệ cao từ 5 - 80 lần GDP bình quân đầu người.
Tại Đông Nam Á, hầu hết các quốc gia đã nâng hạn mức BHTG hoặc chuyển sang chi trả không giới hạn. Trong số các quốc gia có hệ thống BHTG chính thức và công khai tại Đông Nam Á, chỉ có Lào và Việt Nam là chưa tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua. Sau khủng hoảng, các quốc gia quay trở lại cơ chế bảo hiểm có hạn mức. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia đều duy trì hạn mức cao hơn giai đoạn trước khủng hoảng tài chính.
Tại Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể tham khảo các tỷ lệ trên để điều chỉnh cho phù hợp. Việc sớm điều chỉnh hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam không những bảo vệ tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, tăng niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng mà còn khuyến khích người dân gửi tiền nhàn rỗi, giúp các ngân hàng huy động được tối đa nguồn lực cho đầu tư phát triển và hạn chế tình trạng tín dụng “đen”.
Hạn chế các hoạt động của ngân hàng yếu kém
Khác với thủ tục phá sản doanh nghiệp thông thường, pháp luật Việt Nam quy định rõ việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với ngân hàng chỉ thực hiện sau khi NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán hoặc văn bản không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán… Khi ngân hàng có nguy cơ mất khả năng thanh toán, NHNN sẽ xem xét, quyết định áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với ngân hàng đó. Việc mở thủ tục phá sản đối với ngân hàng sẽ được thực hiện khi ngân hàng không có khả năng khôi phục được khả năng thanh toán.
Khi kiểm soát đặc biệt, NHNN ngoài việc kiểm soát hoạt động của các ngân hàng này theo quy định trong Luật các TCTD 2010, cần từng bước thu hẹp dần cả huy động và cho vay một cách nhẹ nhàng để dân chúng không hoang mang lo sợ và dần xử lý theo quy định của pháp luật, cũng như nhanh chóng xử lý hiệu quả nợ xấu và giám sát chặt chẽ toàn bộ hoạt động của ngân hàng này.
Tăng mức trích lập dự phòng
Trong giai đoạn bất ổn từ 2011-2012 đến nay, hầu hết ngân hàng đều làm mọi cách để trích lập dự phòng càng ít càng tốt. Các khoản nợ xấu được giấu thành nợ tốt để không trích lập dự phòng đã đành nhưng với các khoản nợ xấu không thể che giấu thì các ngân hàng vẫn tìm mọi cách để trích lập dự phòng thấp hơn quy định.
Ở khía cạnh khác, những quy định về trích lập dự phòng đối với nợ xấu bán cho Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) lại mập mờ và mang tính đổ đồng mà không phân biệt rủi ro đối với từng khoản nợ và giá trị các tài sản bảo đảm.
Việc không minh bạch trong trích lập dự phòng từ các khoản nợ xấu sẽ làm cho tình hình tài chính của các ngân hàng yếu kém càng trở nên phức tạp và sẽ làm cản trở quá trình thanh lọc các ngân hàng này ra khỏi hệ thống thông qua con đường phá sản thời gian tới, từ đó ảnh hưởng xấu đến việc phân chia tài sản cho người gửi tiền theo quy định.
Tóm lại, trước khi thực hiện cho phá sản ngân hàng, Chính phủ, NHNN và các cơ quan chức năng có liên quan sẽ chuẩn bị rất kỹ hành lang pháp lý, tăng mức bảo hiểm tiền gửi và kiểm soát rất tốt các ngân hàng yếu kém để từ đó ngày càng tạo niềm tin vững chắc hơn cho người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và tạo ra sự ổn định lâu dài cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới.
Theo Trí thức trẻ
- Nhiều ưu đãi hấp dẫn khi giao dịch thanh toán quốc tế tại SHB (25/10/2016)
- Gói tín dụng lớn chưa từng có (25/10/2016)
- Lãi suất qua đêm liên ngân hàng giảm xuống vùng 1%, chạm mức thấp nhất 8 tháng (25/10/2016)
- Chủ tịch Vietlott sang làm Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Phát triển Việt Nam (25/10/2016)
- Big4 tung gói ưu đãi lãi suất 370.000 tỷ và 500 triệu USD cho doanh nghiệp và cá nhân vay sản xuất, kinh doanh (25/10/2016)
- Doanh nghiệp ngại vay vốn ưu đãi vì sợ thanh tra? (25/10/2016)
- Lienvietpostbank gia tăng tính năng bảo mật trong giao dịch trực tuyến (25/10/2016)
- Vì sao có tình trạng lãi suất huy động 6 tháng cao hơn 24 tháng? (25/10/2016)
- FED tăng lãi suất 0,25 điểm % - hàm ý và dự báo tiếp theo? (25/10/2016)