Việt Nam là quốc gia nhận nhiều viện trợ phát triển (ODA) nhất từ Nhật Bản trong những năm gần đây. Điều này cho thấy kỳ vọng cao của chính quyền Tokyo đối với thị trường và cơ sở sản xuất tại Việt Nam.
Tuy nhiên, Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn trong việc tăng cường sự hợp tác giữa 2 quốc gia, như môi trường kinh doanh khá chậm, vị thế tài chính yếu kém và cơ chế quản lý quan liêu.
Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Hiroshi Fukada đã có bài phỏng vấn với tờ Wall Street Journal. Trong đó cho biết chính quyển Tokyo sẽ dự định như thế nào để vượt qua những thách thức trên và tăng cường quan hệ song phương. (Đoạn phỏng vấn sau đã được tờ Wall Street Journal chỉnh sửa cho phù hợp ngữ cảnh)
WSJ: Tại sao Nhật Bản cung cấp rất nhiều viện trợ cho Việt Nam?
Ông Fukuda: Việt Nam đang ngày càng trở nên quan trọng đối với chúng tôi. Nhật Bản và Việt Nam chia sẻ những lợi ích chung và có sự hiểu biết về cách hợp tác nhằm thiết lập hòa bình và ổn định, đặc biệt là về lĩnh vực an ninh hàng hải. Sự việc Biển Đông năm ngoái là một ví dụ. Nhân dịp này, Nhật Bản và Việt Nam đã tăng cường quan hệ ngoại giao giữa 2 nước. Chúng tôi đã cùng hợp tác để nâng cao tiếng nói của mình trong khu vực.
WSJ: Việt Nam có liên quan chặt chẽ thế nào vào Trung Quốc về kinh tế và làm thế nào để Nhật Bản giúp Việt Nam đa dạng hóa lĩnh vực này?
Ông Fukuda: Nền kinh tế Việt Nam có liên quan chặt chẽ với Trung Quốc. Hầu hết các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả từ Nhật Bản, đưa vào quốc gia Đông Nam Á này nhằm phát triển ngành công nghiệp và các nhà máy. Tuy nhiên, những nhà máy vốn đầu tư nước ngoài này lại nhập khẩu những bộ phần và nguyên vật liệu từ Trung Quốc hay Thái Lan.
Lĩnh vực yếu kém nhất của quốc gia này là ngành cônng nghiệp cơ bản. Lấy ví dụ như ngành xe hơi. Tập đoàn Toyota sản xuất hơn 30.000 xe tại đây nhưng phần lớn các bộ phận phải nhập khẩu từ Thái Lan. Việc tự sản xuất các bộ phận xe tại đây chỉ ít hơn 5%.
Những tập đoàn lớn của Nhật Bản đã đầu tư vào thị trường Việt Nam trong hơn 10 năm qua. Để tiếp tục phát triển ngành công nghiệp trong nước, Việt Nam cần phải thúc đẩy hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Đây là thời cơ tốt cho các doanh nghiệp SME của Nhật Bản đầu tư vào thị trường này và giúp đỡ các công ty Việt Nam.
WSJ: Vậy còn các nhà máy nhiệt điện? Trung Quốc được cho là đã xây dựng 60-70% các nhà máy nhiệt điện chạy than tại Việt Nam trong 10 năm qua. Nguyên nhân là các nhà máy này được xây dựng với giá rẻ và nhanh chóng?
Ông Fukuda: Vấn đề là Chính phủ Việt Nam không có một khoản tiết kiệm nội địa lớn (domestic saving) trong khi Nhật Bản đã có những khoản tiết kiệm rất lớn trong thời kỳ đầu phát triển. Bên cạnh đó, nguồn vốn trong nước tại Việt Nam là không đủ. Vì vậy, họ phải phụ thuộc vào viện trợ của nhà đầu tư nước ngoài hoặc lựa chọn những nhà đầu tư có chi phí rẻ hơn.
WSJ: Liệu Nhật Bản có tiếp tục hỗ trợ kinh tế cho Việt Nam ở mức cao?
Ông Fukuda: Hiện tại, chúng tôi chưa có kế hoạch hay dự định cắt giảm nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nào.
WSJ: Vậy việc đầu tư vào Việt Nam có thu được kết quả tốt không và ông đánh giá như thế nào về triển vọng phát triển của thị trường này?
Ông Fukuda: Vâng, kết quả rất tốt. Bên cạnh đó, thị trường này có tiềm năng rất lớn để phát triển. Dân số tại đây đang tăng từ 90 triệu lên 100 triệu người trong 10-20 năm tới với độ tuổi trung bình thấp hơn 30. Đồng thời với đó là sự hòa bình cũng như an ninh tại quốc gia này. Chúng tôi thấy rằng Việt Nam là một đối tác rất quan trọng với Nhật Bản.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với những cơ hội cùng thách thức. Quốc gia này đang tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP). Điều này sẽ đem lại lợi ích lớn cho Việt Nam trong vấn đề thương mại đa phương, đặc biệt là khi Việt Nam có tiềm năng gia tăng xuất khẩu, dệt may và các ngành công nghiệp khác. Mặt khác, quốc gia này vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải giải quyết như cải cách hệ thống tài chính, tái cấu trúc các doanh nghiệp quốc doanh (SOE).
Những nhà lãnh đạo Việt Nam đã nhận thức được sự cần thiết phải đẩy mạnh quá trình cải cách. Mặc dù quá trình này cần có thời gian nhưng việc mở cửa thị trường và các hiệp định tự do thương mại sẽ không chờ đợi ai cả. Do đó, khi hiệp định TPP và khu vực mậu dịch thương mại tự do ASEAN được thực hiện, thị trường này sẽ có rủi ro đến từ sự gia tăng nhập khẩu.
Hoàng Nam - Theo Wall Street Journal
- Phân tích kỹ thuật phiên chiều 23/04: Tâm lý thận trọng vẫn hiện hữu (30/03/2015)
- ĐHĐCĐ CSV: Kế hoạch thận trọng, cuối 2029 hoàn tất dự án Nhơn Trạch (30/03/2015)
- Masan huy động thành công vốn cổ phần trị giá 250 triệu USD từ Bain Capital (30/03/2015)
- DIG tung chương trình tặng quà tham dự ĐHĐCĐ 2024, tối đa 10 triệu đồng/cổ đông (30/03/2015)
- ĐHĐCĐ TLG: Mục tiêu lợi nhuận sau thuế tăng 7%, lãi sau thuế tháng 1 ước đạt 18 tỷ đồng (30/03/2015)
- Techcombank lãi trước thuế quý 1 gần 7,802 tỷ, tăng 39% (30/03/2015)
- Báo cáo thị trường chứng khoán thế giới quý 2/2024 (Kỳ 1): Thị trường châu Á diễn biến giằng co (30/03/2015)
- Ngày 23/04/2024: 10 cổ phiếu nóng dưới góc nhìn PTKT của Vietstock (30/03/2015)
- Nhịp đập Thị trường 23/04: Giằng co quanh tham chiếu (30/03/2015)