Đã có những nghi ngại về thị trường chứng khoán trong hai quý giữa của năm 2018 khi khối ngoại bán ròng liên tục và VN-Index trở thành một trong những thị trường tệ nhất thế giới. Nhưng nếu nhìn về bản chất của thị trường là kênh dẫn vốn của nền kinh tế thì không thể phủ nhận vai trò của thị trường chứng khoán trong thời gian qua. Thống kê của Diễn đàn M&A do Báo Đầu tư tổ chức cho thấy trong giai đoạn 2009 - 2018 tổng các giá trị thương vụ M&A tại Việt Nam đạt 48,8 tỷ USD với hơn 4.000 giao dịch, trong đó riêng năm 2017, giá trị M&A đã đạt mốc kỷ lục 10,2 tỷ USD. Trong nửa đầu năm 2018, nếu tính lượng mua cổ phần gián tiếp thông qua các thương vụ bán vốn, khối ngoại vẫn mua ròng trên TTCK Việt Nam.
Chúng ta đã có những thương vụ tỷ USD, gây tiếng vang trên khu vực như Thaibev mua Sabeco, GIC mua Vinhomes, hay thậm chí trong lĩnh vực tưởng như "khó nhằn" nhất là lĩnh vực nông nghiệp, PAN Group cũng góp mặt hai trong số 100 thương vụ của thập kỷ khi mua Công ty Giống cây trồng Trung ương và PAN Food mua Bibica.
Sức hấp dẫn của thị trường tiêu dùng 100 triệu dân là lực hút dòng vốn toàn cầu đổ vào Việt Nam trong thời gian qua. Và dòng tiền thông minh hiện vẫn đang tiếp tục đi tìm kiếm các địa chỉ đầu tư hấp dẫn để tìm kiếm lợi nhuận.
Khẩu vị của nhà đầu tư ngoại
Theo ông Dominic Scriven, Chủ tịch quỹ Dragon Capital, quỹ ngoại lớn nhất TTCK Việt Nam, có nhiều yếu tố tác động khiến các công ty trong nước sẽ sẵn sàng hơn để mở cửa đón dòng vốn bên ngoài, bất kể đó là dòng vốn trong nước hay nước ngoài. "Nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng", có thêm nhà đầu tư tham gia sẽ giúp doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh.
Ông Dominic Scriven, Chủ tịch Dragon Capital tại diễn đàn M&A do Báo đầu tư tổ chức (ảnh: Báo đầu tư)
Dưới góc nhìn của bà Jiun Park, Phó giám đốc, Trung tâm xúc tiến M&A Toàn Cầu – Kotra (Hàn Quốc), các công ty tại xứ sở kim chi trước đây tập trung nhiều vào lĩnh vực hàng tiêu dùng và khu công nghiệp nhưng xu hướng này đã bắt đầu chậm lại. Nhiều công ty nhỏ và vừa tại Hàn Quốc bắt đầu tìm hiểu về lĩnh vực cơ sở hạ tầng, dược, các lĩnh vực sử dụng lao động như trong ngành dịch vụ, logistic..tại Việt Nam. Theo bà Jiun, các liên minh dược đang được hình thành và phía Hàn Quốc sẽ chuyển giao công nghệ quản lý và khả năng tiếp thị sản phẩm cho đối tác Việt Nam.
Hiện Hàn Quốc đang là nước dẫn đầu rót vốn trực tiếp vào Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng vốn FDI, nhưng tỷ lệ đối với M&A thì chưa đạt kỳ vọng, chỉ khoảng 5%. Tuy vậy, con số giao dịch lại đang tăng nhanh. Năm 2017, tổng số M&A từ Hàn Quốc vào Việt Nam là 300 triệu USD, nhưng 6 tháng đầu năm 2018 đã khoảng 200 triệu USD.
Theo bà Jiun, phía Hàn Quốc cần đối tác trong nước để cùng phát triển hoạt động kinh doanh sau khi mua vốn, tạo đội ngũ hoạt động hậu M&A.
Trong khi đó với nhà đầu tư Nhật Bản, theo ông Masataka Sam Yoshida, Giám đốc điều hành cấp cao, Tập đoàn Recof, thực tế các doanh nghiệp Nhật Bản rất cẩn trọng trước khi ra quyết định rót vốn vào một doanh nghiệp. Họ thích đầu tư vào ngành hàng tiêu dùng nhanh, lĩnh vực sản xuất, năng lượng, và ngành nông nghiệp bắt đầu thu hút vốn Nhật. Hiện nay các công ty toàn cầu của Nhật đang thay đổi chiến lược kinh doanh của mình. Chủ sở hữu của những công ty này thường hơn 60-70 tuổi, nên họ bắt đầu tìm kiếm thế hệ kế thừa – thế hệ này cũng thay đổi luôn sản phẩm của mình, năng động hơn các thế hệ trước và sẵn sàng khám phá các lĩnh vực mới.
Theo ông Yosida, Nhật Bản muốn tăng số lượng đầu tư FDI vào Việt Nam, nhất là ở lĩnh vực hạ tầng, có thể tăng lên 9-10 tỷ USD.
Trong lĩnh vực bất động sản, ông Fan Li, Giám đốc điều hành, Quỹ đầu tư Warburg Pincus cho rằng có 3 yếu tố thúc đẩy dòng vốn vào lĩnh vực bất động sản của Việt Nam thời gian qua. Thứ nhất là tầng lớp trung lưu đang nổi lên thúc đẩy sự phát triển của một số ngành như ô tô, bán lẻ. Warburg Pincus đã đầu tư vào lĩnh vực bán lẻ của Vingroup từ năm 2013 và số trung tâm thương mại hiện phát triển rất nhanh. Thứ hai là dòng vốn đầu tư trực tiếp FDI phát triển theo tốc độ kỷ lục trong 2-3 năm qua. Nhiều nhà sản xuất đến Việt Nam tìm đất, tìm nhà xưởng, kho để thuê, đặc biệt sau sự phát triển của lĩnh vực thương mại điện tử cũng kéo các nhà sản xuất thuê kho hàng. Trong lĩnh vực này Warburg Pincus đã rót vốn vào Becamex thành lập liên doanh để phát triển cơ sở hạ tầng cơ bản cho các nhà sản xuất. Thứ ba là sự phát triển của du lịch, Việt Nam với tài nguyên thiên nhiên phong phú và sự phát triển của các hãng hàng không, cơ sở hạ tầng sân bay cải thiện đã thúc đẩy nhiều thương vụ mua bán sáp nhập trong lĩnh vực khách sạn, lữ hành và lưu trú.
Ở góc độ các công ty trong nước, theo ông Lê Viết Anh Phong, Phó tổng giám đốc Công ty Deloitte Việt Nam nhận định ngành hàng tiêu dùng nhanh các năm trước có tốc độ tăng trưởng 20-30% thì hiện đang chậm lại, cộng thêm sự phát triển về mặt công nghệ và xu hướng thay đổi về tiêu dùng sẽ dẫn đến thay đổi chung. Các doanh nghiệp Việt phải tập trung và thêm vốn để mở rộng công nghệ, cần tìm kiếm các đối tác mạnh ở bên ngoài. Chúng ta có 100 triệu dân nhưng không phải mặt hàng nào cũng dễ phát triển, phải có hướng kinh doanh hỗ trợ tiêu dùng nhiều hơn.
Thách thức và rủi ro khi đầu tư tại Việt Nam
Ông Dominic đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề kế thừa tại các doanh nghiệp lớn của Việt Nam, đã có rất nhiều "đế chế" được thành lập từ những năm 1999-2.000 và chủ các doanh nghiệp đó hiện bắt đầu đến tuổi về hưu. Các doanh nghiệp này gặp vấn đề về tăng quy mô và cần sự tham gia về chiến lược. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong nước "ai cũng muốn làm chủ", theo ông Dominic cần bớt đi lo ngại để có thêm sức mạnh vào doanh nghiệp mình.
Theo các chuyên gia, một trong số các lo ngại khi đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là thẩm định giá. Bên mua muốn giá hợp lý, trong khi các doanh nghiệp Việt Nam lại muốn bán giá cao, đặc biệt trong 1-2 năm trở lại đây. Trong một số trường hợp người chủ doanh nghiệp không sẵn lòng chia sẻ thông tin cho bên mua, dẫn đến việc không đủ thông tin cơ sở để đưa ra định giá. Việc áp dụng sổ kép (hai sổ kế toán) cũng gây khó khăn cho việc định giá.
Trong lịch sử M&A, việc định giá được đưa lên bàn mổ xẻ sau cùng và quyết định chính là chất lượng thông tin, sự sẵn sàng chia sẻ giữa hai bên, và sự phân bổ rủi ro. Người mua sẵn sàng trả giá cao nếu giảm thiểu được rủi ro của họ. Khi muốn thẩm định một công ty, người mua nhìn vào tài sản, hoạt động của công ty đó, thương hiệu của công ty đó cũng như tiềm năng phát triển trong tương lai. Nhưng nếu định giá sai, giao dịch đã được chốt, nhà đầu tư sẽ mắc kẹt và phải đi cùng với doanh nghiệp đó.
Điều gì xảy ra sau khi đầu tư cũng là một rủi ro của nhà đầu tư khi rót vốn vào doanh nghiệp. Sự hợp tác giữa các bên sau giao dịch luôn là một thách thức với nhà đầu tư nước ngoài.
- Chứng khoán Tuần 15-19/04/2024: Triển vọng ngắn hạn tiếp tục bi quan (13/08/2018)
- Chứng khoán Tuần 15-19/04/2024: Triển vọng ngắn hạn tiếp tục bi quan (13/08/2018)
- Phân tích kỹ thuật phiên chiều 19/04: Sắc đỏ tiếp tục duy trì trên diện rộng (13/08/2018)
- Ngày 19/04/2024: 10 cổ phiếu nóng dưới góc nhìn PTKT của Vietstock (13/08/2018)
- Nhịp đập Thị trường 19/04: Giảm trên diện rộng, VN-Index lại rớt sâu (13/08/2018)
- Thị trường chứng quyền 19/04/2024: Tâm lý bi quan vẫn hiện hữu (13/08/2018)
- Chứng khoán phái sinh ngày 19/04/2024: Tâm lý bi quan bao trùm thị trường (13/08/2018)
- Vietstock Daily 19/04/2024: Tình hình đang chuyển biến xấu (13/08/2018)
- Phân tích kỹ thuật phiên chiều 17/04: Tâm lý thận trọng đang hiện hữu (13/08/2018)