Bạn chưa có cổ phiếu theo dõi nào! Nhấn [+] để thêm.
Thêm mã
  • VN-Index 0.00 0 (0%)
  • HNX-Index 0.00 0 (0%)
  • UPCOM-Index 0.00 0 (0%)
Kinh tế quốc tế
Trung Quốc “mắc tóc” trong quá trình quốc tế hóa Nhân Dân Tệ
Đăng 01/07/2016 | 16:12 GMT+7  |   CafeF
Diễn biến của quá trình quốc tế hóa Nhân Dân Tệ như hiện nay gần như đã nằm ngoài dự tính và những biện pháp ứng phó thay thế để đi theo đúng luật chơi lúc này là điều không tưởng với Trung Quốc

Hôm 14/6 tiếp tục đánh dấu một bước lùi trong những nỗ lực của chính phủ Trung Quốc nhằm tăng cường sự phát triển, minh bạch của thị trường vốn tại Đại Lục cũng như nỗ lực quốc tế hóa Nhân Dân Tệ. Lần thứ 3 liên tiếp, hãng xây dựng, thiết lập các chỉ số thị trường vốn, trái phiếu của Mỹ là MSCI đã tiếp tục không chấp nhận đưa các loại cổ phiếu chính của TTCK Trung Quốc tại Đại Lục vào rổ tính toán chỉ số chuẩn theo dõi sức khỏe các nền kinh tế mới nổi của hãng này là MSCI Emerging Market Index.

Như vậy là Trung Quốc phải chờ tới ít nhất là 2017, trong lần đánh giá lại chỉ số này. Động thái này như một đòn giáng mạnh vào tham vọng quốc tế hóa lĩnh vực tài chính của Trung Quốc. Quyết định này của MSCI như một lời tuyên bố rằng Trung Quốc vẫn là một nền kinh tế mới nổi “đóng” đối với nhà đầu tư quốc tế.

Các nhà điều tiết thị trường của nước này thường sử dụng các công cụ can thiệp thị trường theo kiểu tước đoạt tính dự do của nhà đầu tư quốc tế, cụ thể như một số chính sách ngưng giao dịch cổ phiếu nguy hiểm trên thị trường hồi tháng 8/2015, cấm hoạt động bán khống hay đẩy giá thị trường thông qua các quỹ đầu tư nhà nước. Hay nói cách khác, những biện pháp can thiệp với nỗ lực bảo vệ, thúc đẩy thị trường vốn, thúc đẩy quốc tế hóa Nhân Dân Tệ của Trung Quốc đã làm cho tới nay lại đang phản tác dụng.

Quyết định này của MSCI có thể xem như một sự tương phản rõ ràng với quyết định đưa Nhân Dân Tệ vào rổ SDR của IMF hồi cuối tháng 12/2015 - một động thái về bản chất là đã trao cho Nhân Dân Tệ vai trò như một trong những đồng tiền dự trữ quốc tế, bất chấp thực tế là Trung Quốc vẫn chưa đáp ứng được những điều kiện khách quan đối với một đồng tiền dự trữ quốc tế, đặc biệt trong vấn đề tự do hóa thị trường ngoại hối và tài khoản vốn của nước này.

Đợt tháng 8/2015 chính là lúc đỉnh điểm nhất của Nhân Dân Tệ, khi đồng tiền này đã chiếm tới 2,79% trong tổng giá trị các giao dịch thanh toán quốc tế. Tỷ lệ này vẫn còn cách xa tỷ lệ số 1 của đồng USD là và đồng tiền thứ 2 là Euro với 31,47% tuy nhiên đã là bước tiến lớn của Nhân Dân Tệ khi đó.

Tuy nhiên quyết định của IMF được hiểu như một kiểu khuyến khích nhiều hơn là ghi nhận những nỗ lực của Trung Quốc. IMF muốn khuyến khích Trung Quốc thực hiện đầy đủ các cam kết tự do hóa đồng Nhân Dân Tệ hoàn toàn vào năm 2020. Trên thực tế, kể từ sau quyết định của IMF, đồng Nhân Dân Tệ lại ghi nhận sự suy giảm trong quá trình quốc tế hóa. Kể từ tháng 3 năm ngoái, lượng tiền gửi bằng Nhân Dân Tệ tại 3 trung tâm thanh toán Nhân Dân Tệ lớn nhất ngoài Đại Lục gồm Hồng Kông, Đài Loan và Singapore đã giảm 16%, với tổng giá trị thanh toán đạt là 1,24 nghìn tỷ Nhân Dân Tệ tương đương khoảng 188 tỷ USD.

Như vậy, tổng giá trị Nhân Dân Tệ đang được sử dụng trong các giao dịch quốc tế thậm chí còn ít hơn so với lúc chưa được IMF đưa vào SDR, theo đó thì tỷ lệ sử dụng Nhân Dân Tệ trong các giao dịch thanh toán quốc tế được SWIFT (Hội Viễn Thông Tài Chính Liên Ngân Hàng Thế Giới) ghi nhận cuối tháng 4 năm nay đứng ở mức 1,82%.

Bên cạnh đó chỉ có 1/4 trong số những giao dịch thanh toán quốc tế này là gồm có một đối tác khác ở ngoài Đại Lục hay Hồng Kông, đồng nghĩa chỉ có khoảng 0,5% tổng tất cả các giao dịch bằng đồng Nhân Dân Tệ là thực sự diễn ra ở phạm vi quốc tế, bên ngoài đặc khu Hồng Kông – trung tâm thanh toán Nhân Dân Tệ lớn nhất thế giới được Bắc Kinh ủy thác. Vậy hoạt động quốc tế hóa Nhân Dân Tệ trong thanh toán quốc tế cũng không mấy tiến triển tốt từ cuối 2015 tới nay.

Thậm chí chính ngay cả các công ty Trung Quốc cũng không muốn sử dụng Nhân Dân Tệ làm đồng tiền thanh toán khi thực hiện đầu tư, kinh doanh ra nước ngoài. Theo số lượng chứng từ, biên nhận (receipt) ghi lại các giao dịch thanh toán quốc tế bằng đồng Nhân Dân Tệ do các ngân hàng Trung Quốc lưu giữ thì lượng thanh toán này đạt đỉnh vào tháng 8 năm ngoái, trùng thời điểm tỷ lệ thanh toán quốc tế bằng Nhân Dân Tệ đạt mức cao nhất 2,79%. Nhưng từ đó đến nay, mức này đã giảm gần 60%.

Ngoài ra, dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Trung Quốc cũng đã giảm 38%, trong khi đầu tư trực tiếp FDI giảm 15%, lượng đầu tư nước ngoài vào TTCK Trung Quốc cũng giảm 61%. Sự suy giảm đầu tư trực tiếp lẫn gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài cho thấy rõ là không hề có sự gia tăng nắm giữ các loại tài sản thanh toán bằng Nhân Dân Tệ, thậm chí là dự trữ ngoại hối bằng Nhân Dân Tệ (lượng nắm giữ trái phiếu chính phủ Trung Quốc của các nhà đầu tư nước ngoài) hay sức hút quốc tế hóa Nhân Dân Tệ chưa tác động nhiều tới nhà đầu tư, ít nhất là cho tới lúc này.

Lý do đằng sau sự đi xuống này gì? Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, những lo ngại về nền kinh tế Trung Quốc và chính sách kinh tế, tiền tệ khó nắm bắt chính là rào cản lớn nhất. Đối với các nhà đầu tư thì sự ổn định về mặt chính sách kinh tế, tài chính trong dài hạn mới là điều quan trọng, thậm chí còn quan trọng hơn cả những ưu đãi thuế mà họ có thể nhận được. Bị các nhà đầu tư quốc tế thờ ơ, nỗ lực quốc tế hóa Nhân Dân Tệ do đó mà cũng bị xói mòn.

Trong khi đó, các công ty Trung Quốc vẫn lo ngại về rủi ro mất giá rất có thể xảy ra của Nhân Dân Tệ. Lo ngại càng tăng cao sau khi Trung Quốc tung ra một loạt các chính sách can thiệp để nâng đỡ giá trị đồng Nhân Dân Tệ sau đợt suy giảm và phá giá tháng 8 năm ngoái.

Những biện pháp mà Trung Quốc sử dụng đáng kể nhất là can thiệp trực tiếp vào thị trường ngoại hối nhờ vào lượng dự trữ ngoại hối lớn của mình, tuy nhiên đây lại như một gánh nặng rủi ro đối với tỷ giá Nhân Dân Tệ vì Trung Quốc khó mà can thiệp với quy mô hàng trăm tỷ USD mỗi tháng như vậy trong một thời gian dài. Giá trị Nhân Dân Tệ càng giảm cũng đồng nghĩa gánh nặng các khoản nợ thanh toán bằng USD của các công ty Trung Quốc càng tăng lên.

Theo một ước tính của BOA – Bank of America hồi đầu năm nay thì cứ tương ứng với 1% giảm giá trị của Nhân Dân Tệ thì tương ứng là tổng các khoản nợ thanh toán bằng USD của các công ty Trung Quốc sẽ tăng lên 8 tỷ USD. Do lo sợ rủi ro tỷ giá, các công ty Trung Quốc đang thúc đẩy nhanh việc chi trả các khoản nợ thanh toán bằng đồng USD của mình rồi huy động vốn mới thông qua phát hành trái phiếu mới, nhưng lần này là huy động vốn bằng Nhân Dân Tệ chứ không phải USD hoặc Euro.

Đây chính là một trong những nguyên nhân chính gây ra suy giảm mạnh trong dự trữ ngoại hối của Trung Quốc xuống còn 3,2 nghìn tỷ USD hồi tháng 3 năm nay so với mức đỉnh 3,99 tỷ USD hồi tháng 6/2014, khi các công ty Trung Quốc mua lại USD để trả nợ các nhà đầu tư nước ngoài. Sự suy giảm này còn có sự góp phần từ dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc, khi các nhà đầu tư sử dụng phương thức giao dịch chênh lệch (carry trade), tức là vay Nhân Dân Tệ và chuyển đổi sang đồng tiền khác khi mà Nhân Dân Tệ đang chiếm ưu thế tỷ giá so với đồng tiền khác, mà rất có thể chủ yếu là USD và Euro rồi đem tiền này đi đầu tư vào nhiều loại tài sản như chứng khoán, trái phiếu…

Sau cùng thì Trung Quốc nên tự trách chính mình, vì chính những biện pháp mà nước này sử dụng để quốc tế hóa đồng Nhân Dân Tệ đang tạo ra tác dụng ngược.

Kể từ sau động thái phá giá bất ngờ hồi tháng 8/2015 núp bóng dưới động thái nới tự do thêm cho thị trường ngoại hối và cán cân vốn (capital account: đóng vai trò quan trọng trong quản lý ngoại hối ra vào một nền kinh tế), chính PBOC đã lại lo ngại về xu hướng tỷ giá Nhân Dân Tệ tại Đại Lục (CNY) sẽ phải chịu ảnh hưởng lớn hơn từ tỷ giá Nhân Dân Tệ trên thị trường ngoại hối quốc tế (CNH). Cùng một đồng Nhân Dân Tệ, nhưng tỷ giá giao dịch tại Đại Lục - chịu nhiều biện pháp kiểm soát của chính phủ Trung Quốc - luôn có một khoảng chênh lệch đối với tỷ giá Nhân Dân Tệ giao dịch tự do hoàn toàn trên thị trường ngoại hối quốc tế.

Vậy nếu Trung Quốc nới lỏng cho thị trường ngoại hối trong nước thì nhiều khả năng tỷ giá CNY sẽ biến động sát hơn với CNH, do đó nằm ngoài mong muốn kiểm soát tỷ giá, ngoại hối tại Đại Lục của họ. Cũng vì vậy mà PBOC đã phải can thiệp thường xuyên vào thị trường ngoại hối quốc tế bằng cách bán ra dự trữ ngoại hối để mua lại Nhân Dân Tệ nhằm nâng đỡ tỷ giá CNH/USD nhằm ngăn chặn tình trạng bán tháo Nhân Dân Tệ của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như mục đích chính là níu kéo dòng vốn đầu tư nước ngoài tại Đại Lục khi 2 mức tỷ giá CNY với CNH được kéo lại gần nhau hơn nhờ vào can thiệp.

Dưới đây là mô tả, giải thích về 2 loại tỷ giá Nhân Dân Tệ CNY và CNH:

Diễn biến của quá trình quốc tế hóa Nhân Dân Tệ như hiện nay gần như đã nằm ngoài dự tính và những biện pháp ứng phó thay thế để đi theo đúng luật chơi lúc này là điều không tưởng với Trung Quốc. Nếu theo luật chơi, nước này buộc phải để đồng Nhân Dân Tệ suy yếu đáng kể hơn nữa so với USD bằng cách dừng can thiệp vào thị trường ngoại hối, cùng với đó là dỡ bỏ chính sách neo tỷ giá và cho phép thả nổi một phần tỷ giá. Và hệ quả của việc này là đầu tư nước ngoài giảm và mở ra một đợt tháo vốn đầu tư khỏi Trung Quốc, đe dọa thanh khoản của các hệ thống ngân hàng, gia tăng nguy cơ của một cuộc khủng hoảng tài chính.

Và tất nhiên rất khó để Trung Quốc thay đổi phương hướng chính sách. Thậm chí PBOC đang có kế hoạch phát hành 3 tỷ Nhân Dân Tệ trái phiếu chính phủ thanh toán bằng NDT trên sàn chứng khoán Luân Đôn nhằm nâng cao thanh khoản Nhân Dân Tệ trên thị trường ngoại hối quốc tế (mức này tương tương đương 10% tổng thanh khoản Nhân Dân Tệ trên thị trường quốc tế).

Kế hoạch này sẽ giúp PBOC thu về gần nửa tỷ USD nữa, tuy là con số nhỏ so với nước này nhưng nó cho thấy Trung Quốc chưa có ý định cho đồng Nhân Dân Tệ suy yếu thêm. Trung Quốc có thể không cần phải phát hành thêm lượng trái phiếu mới có thể nâng thanh khoản cho Nhân Dân Tệ vì thực chất tới cuối năm nay, khi chính thức được đưa vào rổ SDR của IMF thì tổng thanh khoản Nhân Dân Tệ trên thị trường quốc tế đã tăng thêm gần 17%.

Hiện giờ đang là lúc khó khăn đặc biệt với Trung Quốc, nhất là khi Brexit đe dọa sẽ kích hoạt một đợt khủng hoảng chính trị và thậm chí cả kinh tế tại một trong những thị trường đầu tư lớn nhất của Trung Quốc là EU. Trung Quốc sẽ khó mà thay đổi 180 độ chính sách hiện nay và món nợ quốc tế đó là nghĩa vụ tự do hóa thực sự thị trường vốn và đồng Nhân Dân Tệ sẽ tiếp tục bị trì hoãn trong một thời gian dài tới.

Tuấn Anh

Theo Trí thức trẻ


Kinh tế quốc tế

OSVP CTCP OSEVEN 17,000
2TCORP CTCP Kỹ thuật Công trình Việt Nam 22,000
AAAI CTCP Bảo hiểm AAA 7,900
AAFC CTCP Xây dựng và Kiến trúc AA 3,000
ABBANK Ngân hàng TMCP An Bình 14,220
F88 Công ty Cổ phần Kinh doanh F88 10,200
ABCI CTCP Liên Doanh Quốc Tế ABC 21,000
ABCG CTCP Truyền thông ABC 10,000
ABSC CTCP Chứng khoán An Bình 30,000
AVICON CTCP Công trình Hàng không 23,667
ACCCO CTCP Tư vấn Kiến trúc và Xây dựng Tp. Hồ Chí Minh 11,400
VIGECAM TCT Vật tư Nông nghiệp - CTCP 15,000
ACSVN CTCP ACS Việt Nam 15,000
ADCC CTCP Xây dựng Trang trí Kiến trúc ADC 17,000
AGRC CTCP Địa ốc An Giang 11,000
AESC CTCP XNK Nông sản và Thưc Phẩm Sài Gòn 45,000
AGRIMEXCM CTCP XNK Nông sản Thực phẩm Cà Mau 10,000
AGTC CTCP Du lịch An Giang - ANGIANG TOURIMEX 9,500
AGTEX28 Công ty 28 - AGTEX 12,500
VNAI CTCP Bảo hiểm Hàng không 9,200
AIRIMEX CTCP xuất nhập khẩu Hàng không 27,000
AIRSERCO CTCP Cung ứng Dịch vụ Hàng không 14,000
ALTC CTCP Âu Lạc 10,000
VNWIND CTCP Điện Cơ Thống Nhất 55,000
ALSIMEXCO CTCP Cung ứng & XNK Lao động Hàng không Việt Nam 15,000
UAMC CTCP Cơ khí ôtô Uông Bí 10,000
AMPHARCO CTCP Dược Phẩm Việt Nam - Ampharco 15,000
AMVI CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt - Mỹ 18,000
APC1 CTCP An Phú 8,000
APLACO CTCP Nhựa cao cấp Hàng Không 14,500
SAPT CTCP Kinh doanh Thủy hải sản Sài Gòn 12,000
FLCS CTCP Chứng khoán FLC 15,000
ARTEXPORT CTCP Xuất nhập khẩu Thủ công mỹ nghệ 50,000
ARTEXTL CTCP Xuất Nhập khẩu Mỹ Nghệ Thăng Long 9,000
ASAC CTCP Tơ tằm Á Châu 11,000
ASECO Công ty cổ phần 32 27,750
BAROTEX CTCP Thương mại và Đầu tư Barotex Việt Nam 15,000
BASEAFOOD CTCP Chế biến XNK Thủy Sản Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 11,000
BBCC CTCP Xây dựng và Sản xuất Vật liệu Xây dựng Biên Hòa 20,000
BBDC CTCP Bao bì Dược 15,000
BC14 Công ty cổ phần Cầu số 14 50,000
BCRES CTCP Thương mại và Địa ốc Bình Chánh 19,000
BD10 CTCP Bạch Đằng 10 30,000
RTDC CTCP Phát triển Phát thanh Truyền hình 14,500
BDHC CTCP Thủy điện Bình Điền 10,000
BESEACO CTCP Thủy sản Bến Tre 12,000
BFIC CTCP Đầu tư Tài chính BIDV 2,500
BIANFISHCO CTCP Thủy sản Bình An 5,000
BICONSI CTCP Xây dựng Tư vấn Đầu tư Bình Dương 12,000
BIGAMEX CTCP May Bình Minh 14,000
TLD CTCP Đầu tư Xây dựng và Phát triển Đô thị Thăng Long 4,290
PHALE CTCP Sản xuất và Công nghệ Nhựa Pha Lê 21,200
EMC1 CTCP Cơ Điện Thủ Đức 11,000
EVNLC CTCP Bất động sản Điện lực Miền Trung 7,000
FPTS CTCP Chứng khoán FPT 12,000
HABECO Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội 60,000
HDBANK Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM 36,083
HTC1 CTCP Xi Măng Hà Tiên 1 16,000
HTT CTCP Thương mại Hà Tây 1,600
NCTS CTCP Dịch vụ Hàng hóa Nội Bài 77,000
PCC1 CTCP Xây Lắp Điện I 30,000
NT2 CTCP Điện Lực Dầu Khí Nhơn Trạch 2 21,650
PYMEPHARCO CTCP Pymepharco 45,000
SAB Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn 54,000
SHJC CTCP Thủy Điện Sê San 4A 10,000
TANCANG CTCP Đại lý Giao nhận Vận tải Xếp dỡ Tân Cảng 41,000
TCB Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam 44,850
THI CTCP Thiết Bị Điện 29,000
TPBANK Ngân hàng TMCP Tiên Phong 33,000
TRAPHACO CTCP Traphaco 115,500
VCSC CTCP Chứng Khoán Bản Việt 60,000
VICOTEX TCT Việt Thắng - CTCP 30,000
VIETJET CTCP Hàng Không VIETJET 113,000
VNPD CTCP Phát triển Điện lực Việt Nam 13,000
VPBANK Ngân Hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 43,000
ABT CTCP XNK Thủy Sản Bến Tre 33,600
AGF CTCP XNK Thủy Sản An Giang 2,700
BBC CTCP Bibica 50,100
BMC CTCP Khoáng Sản Bình Định 17,800
BMP CTCP Nhựa Bình Minh 113,200
CII CTCP ĐT Hạ Tầng Kỹ Thuật Tp.Hồ Chí Minh 16,350
CLC CTCP Cát Lợi 41,000
COM CTCP Vật Tư Xăng Dầu 33,900
DHA CTCP Hóa An 43,000
DHG CTCP Dược Hậu Giang 114,400
DIC CTCP Đầu Tư &Thương Mại DIC 1,200
DMC CTCP XNK Y Tế Domesco 64,000
DRC CTCP Cao Su Đà Nẵng 29,350
DTT CTCP Kỹ Nghệ Đô Thành 20,900
FMC CTCP Thực Phẩm Sao Ta 49,000
FPT CTCP FPT 111,800
GIL CTCP SXKD & XNK Bình Thạnh 31,000
GMC CTCP SX-TM May Sài Gòn 8,920
GMD CTCP Gemadept 80,500
HAP CTCP Tập Đoàn Hapaco 4,670
HAS CTCP Hacisco 6,850
HAX CTCP Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh 15,300
HBC CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình 7,300
HMC CTCP Kim Khí Tp.HCM - Vnsteel 11,900
HRC CTCP Cao Su Hòa Bình 46,200
CAG CTCP Cảng An Giang 7,900
BLSEAFOOD CTCP Thủy sản Bạc Liêu 3,900
HPPO CTCP Cảng Hải Phòng 15,000
VVMI CTCP Xi Măng La Hiên VVMI 7,500
MAS CTCP Dịch Vụ Hàng Không Sân Bay Đà Nẵng 34,300
MASECO CTCP Dịch Vụ Phú Nhuận 23,000
NDF CTCP Chế Biến Thực Phẩm Nông Sản XK Nam Định 900
NIFERCO CTCP Phân Lân Ninh Bình 20,000
PLI3 CTCP Xây Lắp III Petrolimex 14,000
PC3I CTCP Đầu tư Điện lực 3 15,000
PVB CTCP Bọc Ống Dầu Khí Việt Nam 23,100
SDMC CTCP Thanh Hoa - Sông Đà 15,000
SHAL CTCP Nhôm Sông Hồng 12,000
VCIE CTCP Xuất Nhập Khẩu Than - Vinacomin 35,000
TNC1 CTCP Thống Nhất 13,500
TTCO CTCP Du Lịch - Thương Mại Tây Ninh 11,000
VITHAICO CTCP Dây Cáp Điện Việt Thái 10,800
VMJC CTCP Chế Tạo Máy - Vinacomin 12,000
VMDCO CTCP Phát Triển Hàng Hải 7,900
VNCT CTCP Kinh Doanh Than Miền Bắc - Vinacomin 24,329
VNPE3 CTCP Dược Phẩm Trung Ương 3 21,000
VOSA CTCP Đại lý Hàng hải Việt Nam 11,000
VTFI CTCP Thương Mại & Đầu Tư VINATABA 10,000
WSC CTCP Bến Xe Miền Tây 24,538
ALT CTCP Văn Hóa Tân Bình 17,600
BPC CTCP Vicem Bao Bì Bỉm Sơn 9,300
CAN CTCP Đồ Hộp Hạ Long 45,700
DNP CTCP Nhựa Đồng Nai 20,200
DPC CTCP Nhựa Đà Nẵng 8,500
DXP CTCP Cảng Đoạn Xá 12,800
NHC CTCP Gạch Ngói Nhị Hiệp 31,000
PMS CTCP Cơ Khí Xăng Dầu 30,200
SAF CTCP Lương Thực Thực Phẩm Safoco 54,900
SDN CTCP Sơn Đồng Nai 28,500
SFN CTCP Dệt Lưới Sài Gòn 22,900
SGC CTCP Xuất Nhập Khẩu Sa Giang 71,000
SGH CTCP Khách Sạn Sài Gòn 24,200
SJ1 CTCP Nông Nghiệp Hùng Hậu 11,800
TMC CTCP Thương Mại XNK Thủ Đức 9,200
UNI CTCP Viễn Liên 9,600
VGP CTCP Cảng Rau Quả 25,100
VTC CTCP Viễn Thông VTC 8,500
ACB Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu 26,750
BBS CTCP VICEM Bao Bì Bút Sơn 11,000
BCC CTCP Xi Măng Bỉm Sơn 8,100
BTS CTCP Xi Măng Vicem Bút Sơn 5,500
BVS CTCP Chứng Khoán Bảo Việt 32,600
CJC CTCP Cơ Điện Miền Trung 25,800
CMC CTCP Đầu Tư CMC 6,100
CTB CTCP Chế tạo Bơm Hải Dương 24,000
ABI CTCP BH NH Nông Nghiệp Việt Nam 23,300
ACE CTCP Bê Tông Ly Tâm An Giang 36,100
ACSC CTCP Xây Lắp Thương Mại 2 24,000
SAFE CTCP Thực Phẩm Nông Sản Xuất Khẩu Sài Gòn 25,000
APFCO CTCP Nông Sản Thực Phẩm Quảng Ngãi 63,000
IHK CTCP In Hàng Không 14,500
BMJ CTCP Khoáng Sản Becamex 11,000
BC12 CTCP Cầu 12 11,000
BELCO CTCP Điện Tử Biên Hòa 12,500
BHHC CTCP Thủy điện Bắc Hà 10,457
BIDIPHAR CTCP Dược - Trang Thiết Bị Y Tế Bình Định 37,000
BLIC Tổng CTCP Bảo hiểm Bảo Long 4,000
BTTS CTCP Dịch Vụ Du Lịch Bến Thành 8,000
UDJ CTCP Phát triển Đô thị 9,400
BWACO CTCP Cấp nước Bà Rịa - Vũng Tàu 9,000
CFC CTCP Cafico Việt Nam 9,100
CAGIPHARM CTCP Dược Phẩm Cần Giờ 2,000
CAWASCO CTCP Cấp Thoát Nước Cần Thơ 8,500
CBSC CTCP Gang Thép Cao Bằng 25,000
CCIC CTCP Tư vấn và Đầu tư Xây dựng CCIC Hà Nội 8,500
CCHP CTCP Cảng Cửa Cấm Hải Phòng 8,500
CDJC CTCP Cầu Đuống 7,500
CECO CTCP Thiết Kế Công Nghiệp Hóa chất 10,500
CIEG CTCP Tập Đoàn Xây Dựng Và Thiết Bị Công Nghiệp 13,500
CHOLIMEX CTCP Xuất nhập khẩu và Đầu tư Chợ Lớn (CHOLIMEX) 10,500
CLMF CTCP Thực Phẩm Cholimex 20,000
CIPC CTCP Xây lắp và Sản xuất Công nghiệp 12,500
CLPI CTCP Đầu tư Cảng Cái Lân 13,000
COMA TCT Cơ khí Xây dựng - CTCP 10,500
COMIFOOD CTCP Lương Thực Thực Phẩm Colusa - Miliket 19,000
CONINCO CTCP Tư vấn Công nghệ Thiết Bị & Kiểm Định XD - Coninco 12,500
CPH CTCP Phục vụ Mai táng Hải Phòng 300
CPTP CTCP Nhiệt điện Cẩm Phả - TKV 10,000
CT3 CTCP ĐT & XD Công Trình 3 7,300
THR CTCP Đường sắt Thuận Hải 41,700
DPHC CTCP Đạt Phương 15,000
DBHP CTCP Thủy điện Định Bình 35,000
DECOFI CTCP Xây Dựng và Thiết Kế Số 1 8,500
DIC1 CTCP Đầu Tư Phát Triển Xây Dựng Số 1 10,500
DICTT CTCP Du Lịch & Thương Mại DIC 15,000
DBM CTCP Dược - Vật Tư Y Tế Đăk Lăk 25,500
DNMB CTCP Đầu Tư Xây Dựng & Vật Liệu Đồng Nai 10,000
DOPETCO CTCP Vận Tải Xăng Dầu Đồng Tháp 12,500
DVSG CTCP Kính Viglacera Đáp Cầu 12,000
EMEC CTCP Điện Cơ 12,000
EMMC CTCP Cơ Điện Vật Tư 11,500
FISHIPCO CTCP Cơ Khí Đóng Tàu Thủy Sản Việt Nam 12,500
FOOCOSA CTCP Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh 12,667
FORIPHARM CTCP Dược Trung ương 3 19,000
FPTOL CTCP Dịch vụ Trực tuyến FPT 105,000
Xem thêm...
  • Địa chỉ: Số 6 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội.
  • Điện thoại: (+84) 24 66873314
  • Email: contact@sanotc.com
Follow VinaCorp
Đã được cấp giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp số 1472/ GP - TTĐT Ghi rõ nguồn "VinaCorp" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này.
© Copyright 2008-2024 VINACORP.VN. All Rights Reserved - OTC Vietnam Corp