Bóng ma khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đang hiện hữu ở thị trường mới nổi?
Hơn 2 năm qua, các nhà đầu tư trên toàn cầu đã tỏ ra say mê các thị trường mới nổi, nhưng tình hình nay đã khác. Trong vài tuần gần đây, dòng tiền liên tục rút khỏi các thị trường mới nổi và chuyển sang Mỹ, qua đó khiến USD tăng giá, trong khi đồng tiền của các thị trường mới nổi lại rơi xuống đáy mới.
Hiện nay, Thổ Nhĩ kỳ là tâm điểm của làn sóng bán tháo, và các quốc gia khác – bao gồm Argentina, Hungary và Indonesia – đều bị tác động nặng nề khi nhà đầu tư rút vốn ra khỏi các cổ phiếu và trái phiếu có rủi ro cao, đồng thời chuyển sang các tài sản an toàn ở Mỹ. Theo quan điểm của một số chuyên gia kinh tế, bóng ma của cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á vào năm 1997-1998 đang hiện hữu. Vậy điều gì đang diễn ra?
1. Tại sao thị trường mới nổi lại giảm mạnh?
Câu trả lời dễ dàng nhất là dòng tiền đang rút khỏi các thị trường mới nổi để tìm kiếm các cơ hội, những nơi có tỷ suất sinh lời cao nhất.
Nhà đầu tư bắt đầu yêu thích thị trường mới nổi từ lúc Mỹ, Nhật Bản và châu Âu giữ lãi suất ở gần hoặc dưới mức 0% với mục đích thúc đẩy nền kinh tế trì trệ của họ hồi phục trở lại từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Điều này khiến tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu hoặc trái phiếu ở những nước này trở nên kém hấp dẫn và thúc đẩy nhà đầu tư đổ xô vào các quốc gia đang phát triển – nơi rủi ro cao hơn nhưng phần thưởng cũng hấp dẫn hơn. Kết quả là cổ phiếu, trái phiếu và tiền tệ của các thị trường mới nổi tăng mạnh.
Và giờ thì mọi thứ đang diễn ra theo chiều hướng ngược lại, nhà đầu tư đang phản ứng trước các dấu hiệu từ phía Mỹ – tăng trưởng mạnh hơn, lãi suất ngày càng tăng và đồng USD mạnh hơn. Cả 3 yếu tố trên báo hiệu tỷ suất sinh lợi cao hơn từ các khoản đầu tư tại Mỹ, và do đó trở thành nam châm thu hút dòng tiền trên toàn cầu. Ngoài ra, chúng cũng phá vỡ sự hấp dẫn của các thị trường mới nổi. Tình trạng khủng hoảng ở Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến nhà đầu tư kinh hãi không thôi.
2. Đáng sợ tới mức nào?
Một số cho rằng đây chỉ đơn giản là một sự gián đoạn trong ngắn hạn khi các nhà đầu cơ vốn đặt cược vào đồng USD yếu hơn bị bất ngờ trước đà tăng của đồng bạc xanh. Những người khác thì cho rằng các quốc gia đang phát triển đang trong tình trạng tệ hơn so với suy nghĩ của nhà đầu tư.
Chẳng hạn, Giáo sư Harvard, Carmen Reinhart, cho rằng mức nợ ngày càng tăng, xung đột thương mại, lãi suất ngày càng cao và sự chững lại của tăng trưởng đã khiến các thị trường mới nổi trở nên dễ tổn thương hơn so với thời điểm trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Paul Krugman, Chuyên gia kinh tế đạt giải Nobel, cho rằng tình hình hiện tại có đôi chút tương tự với cuộc khủng hoảng tài chính châu Á hồi cuối thập niên 90, thời điểm chỉ số MSCI Emerging Markets Index lao dốc tới 59%.
3. Điều gì gây ra cuộc khủng hoảng châu Á?
Mọi chuyện khởi đầu khi bong bóng bất động sản nổ ra ở Thái Lan – qua đó phá vỡ niềm tin của nhà đầu tư vào nền kinh tế, đồng thời khiến nhà đầu tư nước ngoài bán đổ bán tháo đồng Bath và tháo chạy khỏi thị trường chứng khoán Thái Lan. Cuộc khủng hoảng nhanh chóng lan ra các ngân hàng và rồi tới phần lớn khu vực Đông Á.
Một số nền kinh tế bị ảnh hưởng có tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh nhưng ẩn sâu đằng sau mức tăng trưởng này là những yếu kém như các khoản nợ xấu của ngân hàng, khoản vay nước ngoài cao và thâm hụt thương mại ngày càng tăng. Vì đồng tiền của họ được neo theo USD, Hàn Quốc và các quốc gia khác buộc phải chi ra hàng tỷ USD để cố gắng chống đỡ trước đà bán tháo của các nhà đầu cơ. Họ nhanh chóng cạn kiệt dự trữ USD, kết quả là buộc phải từ bỏ việc neo giá và đồng tiền của họ tụt dốc không phanh. Khủng hoảng nhanh chóng lây lan vì nhà đầu tư nước ngoài cũng thoái vốn khỏi các quốc gia khác trong khu vực vì những vấn đề tương tự. Cuối cùng, một số quốc gia đã phải cầu cứu Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
4. Liệu có thêm một cuộc khủng hoảng tương tự năm 1997-1998?
Không, ít nhất là vẫn chưa tới mức đó. Một lý do để giải thích cho vấn đề này là nhà đầu tư đang rút vốn có chọn lọc, họ rút vốn ra khỏi các thị trường – nơi những nhà hoạch định chính sách không thực hiện đủ tốt để ngăn chặn sự suy giảm của cán cân thương mại và đà tăng của lạm phát.
Những quốc gia này bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina – nơi có sự kết hợp tồi tệ nhất giữa sự quản trị yếu và mức nợ bằng USD cao trong số 18 nền kinh tế mới nổi khác. Bên cạnh đó, Brazil và Indonesia cũng không khá khẩm hơn Thổ Nhĩ Kỳ và Argentina bao nhiêu.
5. Những nền kinh tế nào có vẻ dễ bị tác động?
Các nền kinh tế vốn phụ thuộc vào USD và các đồng ngoại tệ khác để tài trợ cho khoản thâm hụt thương mại của họ hiện đang sở hữu những đồng tiền có thành quả tồi tệ nhất châu Á trong năm nay, đáng chú ý nhất là Philippines, Ấn Độ và Indonesia. Những quốc gia có tỷ lệ nhà đầu tư nước ngoài sở hữu trái phiếu Chính phủ cao nhất có thể sẽ bị tác động nặng nề nhất trước tình trạng tháo chạy của dòng vốn, bao gồm Nam Phi, Indonesia và Nga.
6. Tại sao Thổ Nhĩ Kỳ gặp quá nhiều rắc rối?
Đây là một trong những quốc gia có đồng nội tệ bị tác động nặng nề nhất, đồng Lira đã giảm hơn 17% so với USD trong năm nay. Thỗ Nhĩ Kỳ có thâm hụt ngân sách cao và là một trong những nước có thâm hụt thương mại lớn nhất trong khối quốc gia G-20.
Mặc dù lạm phát đã hơn 10% nhưng Ngân hàng Trung ương nước này lại bị Tổng thống Recep Tayyip Erdogan ngăn không cho nâng lãi suất. Recep Tayyip Erdogan cho biết ông thích mức lãi suất thấp hơn, dựa trên những ý tưởng của riêng ông về chính sách tiền tệ. Chưa hết, vị Tổng thống Thỗ Nhĩ Kỳ còn cho biết ông đã lên kế hoạch để gia tăng quyền kiểm soát của ông về chính sách tiền tệ nếu ông tái đắc cử Tổng thống vào tháng tới.
Tuần trước, Ngân hàng Trung ương Thỗ Nhĩ Kỳ đã thực hiện động thái khẩn cấp để ngăn chặn đà sụt giảm của đồng Lira bằng một đợt nâng lãi suất, và trong tuần này, họ còn tiến hành đơn giản hóa cơ chế lãi suất. Tất cả những yếu tố trên khiến Thổ Nhĩ Kỳ trông có vẻ rủi ro hơn trong mắt nhà đầu tư.
7. Tại sao có nhiều quốc gia vay nợ bằng USD?
Cảm thấy phấn khởi bởi mức lãi suất gần 0% sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, các quốc gia đang phát triển đã gia tăng vay nợ vì lãi suất thấp. Bán ra các trái phiếu định danh bằng USD thay vì định danh bằng đồng nội tệ cũng sẽ thu hút nhà đầu tư, những người ưa chuộng đồng bạc xanh vì ổn định hơn.
Ví dụ, lĩnh vực doanh nghiệp của Thỗ Nhĩ Kỳ có mức nợ định danh bằng USD tương đương 40% GDP. Dù vậy, nhà đầu tư toàn cầu đôi khi vẫn ngó lơ các dấu hiệu nguy hiểm như sự gia tăng của thâm hụt thương mại và các khoản chi tiêu phung phí của Chính phủ. Cho đến khoảng thời gian gần đây, USD bắt đầu tăng mạnh và lãi suất cũng ngày càng tăng thì nhà đầu tư mới bắt đầu lo ngại về khả năng trả nợ của các thị trường mới nổi. Vì một khi vay bằng USD thì họ cũng phải trả bằng USD. Khi đồng bạc xanh tăng giá so với các đồng khác thì phải tốn nhiều đồng nội tệ hơn để đổi sang USD.
Tuấn Kiệt (Theo Bloomberg)
FiLi
- Thế giới tài chính thời Trump 2.0 khác gì với năm 2016? (30/05/2018)
- Tăng hơn 300 điểm, Dow Jones vượt mốc 44,000 điểm (30/05/2018)
- Trump thắng cử, nhưng vẫn có lý do để lo đấy, Elon Musk! (30/05/2018)
- Chiến lược đầu tư dài hạn hậu bầu cử Mỹ: Cơ hội và thách thức (30/05/2018)
- Giới đầu tư săn tìm cổ phiếu hưởng lợi từ chính sách của Trump (30/05/2018)
- Cú bắt tay Musk-Trump đẩy vốn hóa Tesla vượt 1,000 tỷ USD (30/05/2018)
- Dow Jones chinh phục mốc 44,000 điểm, S&P 500 và Nasdaq lập kỷ lục mới (30/05/2018)
- S&P 500 và Nasdaq Composite nối dài đà tăng sau khi Fed hạ lãi suất (30/05/2018)
- Ngay cả Warren Buffett cũng nghĩ cổ phiếu Berkshire Hathaway quá đắt (30/05/2018)