Bạn chưa có cổ phiếu theo dõi nào! Nhấn [+] để thêm.
Thêm mã
  • VN-Index 0.00 0 (0%)
  • HNX-Index 0.00 0 (0%)
  • UPCOM-Index 0.00 0 (0%)
Kinh tế đầu tư
Tín chỉ carbon rừng: Nên bán hay để dành?
Đăng 22/04/2024 | 10:40 GMT+7  |   VietStock
Có chuyên gia cho rằng nên bán tín chỉ carbon thay vì dự trữ bởi có thời hạn sử dụng, nhưng cũng có ý kiến đề xuất nên thành lập quỹ để có thể mua sớm những tín chỉ này trước khi giá lên cao trong tương lai.

Tín chỉ carbon rừng: Nên bán hay để dành?

Có chuyên gia cho rằng nên bán tín chỉ carbon thay vì dự trữ bởi có thời hạn sử dụng, nhưng cũng có ý kiến đề xuất nên thành lập quỹ để có thể mua sớm những tín chỉ này trước khi giá lên cao trong tương lai.

Tín chỉ carbon có thời hạn sử dụng

Tại hội thảo "Thị trường tín chỉ carbon - Động lực xây dựng Việt Nam Xanh" do báo Tuổi trẻ phối hợp tổ chức ngày 20/04, ông Nguyễn Văn Minh – Trưởng phòng Kinh tế và Phân tích biến đổi khí hậu, Cục Biến đổi khí hậu cho biết để đạt mục tiêu Net Zero đến năm 2050 thì Việt Nam cần phải có cam kết theo từng giai đoạn vì quốc tế quy định như vậy.

Thị trường hiện nay đang trong giai đoạn 2021-2030 và tín chỉ carbon ra được trong giai đoạn này chưa chắc được sử dụng sau năm 2030 bởi tín chỉ có thời hạn sử dụng chứ không phải mua tích trữ bây giờ mà có thể sử dụng sau.

Trước đây, ở giai đoạn cam kết Nghị định thư Kyoto từ 2008-2012 cho phép các quốc gia phát triển đầu tư các dự án tạo tín chỉ carbon nhắm bù trừ cho mục tiêu giảm phát thải của mình. Thời điểm đó đã có rất nhiều tín chỉ được tạo ra và giá trị rất cao.

Tuy nhiên, sau giai đoạn này, một số quốc gia phát triển thuộc nhóm bắt buộc phải giảm phát thải lại không thực hiện cũng như không tuân thủ nghĩa vụ của mình. Để rồi đến 2013-2020 là một khoảng trống về mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu.

“Nhiều quốc gia không tham gia cam kết nữa vì cho rằng chỉ riêng họ làm mà người khác không làm thì không công bằng. Giá tín chỉ carbon khi đó sụt giảm kinh khủng, từng ở mức giá 30 USD/tín chỉ giai đoạn 2008-2012 và giảm chỉ còn khoảng vài USD sau đó”, chuyên gia nói.

Có trường hợp doanh nghiệp Việt Nam làm dự án tạo tín chỉ carbon thời điểm 2008 nhưng đã tích trữ lại để bán được giá cao hơn. Tuy nhiên, giai đoạn sau giá quá thấp nên quyết định không bán nữa và hiện nay vẫn đang để trên hệ thống lưu ký tín chỉ carbon của Liên Hiệp Quốc bởi tiền bỏ ra để lấy về còn nhiều hơn tiền bán ra. Và tín chỉ đó đã không còn thời hạn sử dụng nữa vì giờ đang ở giai đoạn cam kết khác.

Giá tín chỉ carbon phụ thuộc vào điều gì?

Về ý kiến hiện nay trên truyền thông đang có hai luồng dư luận trái chiều, một là bây giờ làm tín chỉ carbon để có nguồn thu và thứ hai là phải có chính sách ngăn việc “chảy máu” các tín chỉ này ra thị trường quốc tế để có thể trữ và dành cho việc bù trừ trong tương lai, ông Nguyễn Võ Trường An – Phó Tổng Giám đốc CTCP Sàn Giao dịch Tín chỉ Carbon ASEAN cho biết hai luồng ý kiến này thật ra không chính xác, mà chỉ phụ thuộc vào chiến lược của từng doanh nghiệp, từng khu vực cũng như quốc gia trong việc đạt được cam kết Net Zero.

Theo chuyên gia, hiện nay Trung Quốc có chính sách ngăn cấm mua bán tín chỉ carbon ra nước ngoài và chỉ cho giao dịch trong nội địa cũng như hướng đến việc dự trữ trong nước phục vụ chiến lược lâu dài.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy nếu bán tín chỉ carbon ở thời điểm hiện tại với giá hợp lý và sử dụng nguồn tài chính đó để tái đầu tư vào những công nghệ giảm phát thải thì rất khả thi và có thể phục vụ cho một tầm nhìn dài hạn.

Chia sẻ thêm, ông An đánh giá yếu tố quan trọng nhất của tín chỉ carbon là tính bổ sung. Nếu một dự án trồng rừng, cải tạo đất hoặc tăng diện tích phủ xanh của những cánh rừng tự nhiên, hoặc là có công nghệ nào đó áp dụng vào nhà máy, trung tâm thương mại hay bất kỳ dự án nào để giảm lượng phát thải nhưng nếu không có nguồn tài chính từ tín chỉ carbon thì độ khả thi của dự án hầu như là không có.

Do vậy, giá của tín chỉ carbon sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, tiên quyết nằm ở bản chất của dự án và những chi phí đã bỏ ra để thực hiện dự án đó.

Các chuyên gia tại buổi tọa đàm. Ảnh: Tử Kính

Xem xét việc lập quỹ tín chỉ carbon

TS. Phạm Văn Đại – Giảng viên cao cấp, Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright cho rằng cần thiết phải quy hoạch tín chỉ carbon để sử dụng phù hợp. Theo một số nghiên cứu của Bloomberg, đến năm 2050 dạng tự nguyện có thể lên đến 200 – 300 USD/tín chỉ, gấp 40 – 50 lần so với hiện tại. Và điều đó dựa trên những giả định với những nền tảng mới, công nghệ mới để có thể tăng tính xác thực của các tín chỉ này.

Trong tương lai, các tập đoàn toàn cầu như Samsung, Apple,… sẽ yêu cầu toàn bộ các chuỗi cung ứng đều phải trung hòa carbon. Các doanh nghiệp nội địa Việt Nam nếu muốn tham gia chuỗi cung ứng đó đều phải mua lại tín chỉ carbon và rất có thể phải mua với giá cao.

Chính vì vậy nên cần xem xét thành lập một quỹ dự trữ, nơi Chính phủ bỏ tiền ra để mua lại các tín chỉ carbon do doanh nghiệp nội địa tạo ra để dự phòng cho tương lai 20 – 30 năm sau này, khi đó các doanh nghiệp tham gia các chuỗi cung ứng toàn cầu không phải mua với giá quá cao nữa.

Theo ông Đại, bản thân tín chỉ carbon cần được nhìn nhận như một dạng tài nguyên và tài nguyên này là đặc thù, không vô tận và không tái tạo. Mức giá bán 5 USD/tín chỉ không cao vì có thể liên quan đến chất lượng của loại tín chỉ carbon này.

Chẳng hạn như Úc kiểm kê có đến 3/4 tín chỉ do các doanh nghiệp Úc mua có vấn đề về tính xác thực, thậm chí có những cánh rừng đã bán tín chỉ carbon ở Papua New Guinea nhưng qua kiểm tra đã bị phá thành gỗ hoàn toàn, nên cái giá thấp là như vậy.

Theo TS. Nguyễn Ngọc Huy – Chuyên gia nghiên cứu độc lập về biến đổi khí hậu, các hãng dầu mỏ lớn quốc tế từ lâu đã chủ động tìm đến các quốc gia đang phát triển, nơi có rừng, có công nghệ để mua tín chỉ carbon trước, ở dạng đặt cọc hoặc đã mua thành công như Shell mua tín chỉ carbon từ cây lúa ở Trung Quốc…

Các doanh nghiệp ở Việt Nam dường như chưa chuẩn bị sẵn sàng ở các thị trường như thế bởi nếu mua sớm sẽ tiếp cận được mức giá tốt hơn so với việc mua muộn. Do đó, nỗi lo ở đây là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi ra thị trường quốc tế nếu không tự bù trừ được carbon.

Không phải cứ có tiền là có thể bù trừ được carbon. Chúng ta phải thay đổi chứ không chỉ giao toàn bộ trách nhiệm cho người khác. Mỗi doanh nghiệp đều cần cải tiến công nghệ, thay đổi cách làm. Điều này không phải cần đến chế tài mới làm, mà cần phải làm sớm vì hiện nay phải đuổi theo thị trường chứ không còn đi tắt đón đầu nữa”, ông Huy nêu quan điểm.

Doanh nghiệp vừa và nhỏ nên hợp sức theo mô hình hiệp hội

Theo ông Huy, khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là đầu tư để có được tín chỉ carbon bởi số tiền bỏ ra không thỏa đáng so với số tiền bán được. Các chi phí mời chuyên gia độc lập vào thẩm định là rất cao.

“Các công ty kiểm toán thuộc Big 4 như Deloitte hay EY bắt đầu có những chuyên gia kiểm toán độc lập về tín chỉ carbon nhưng giá thuê cực kỳ đắt”, ông Huy nói.

Nhiều doanh nghiệp thắc mắc việc có diện tích rừng rộng cả ngàn hecta để làm tín chỉ carbon nhưng vướng rất nhiều vấn đề về thể chế, quyền sở hữu đất đai. Chẳng hạn, một người mua giấy tay nhưng đất đó không thuộc quy hoạch để trồng rừng nên việc hình thành một tín chỉ carbon rất phức tạp về mặt chính sách, vì thế các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận.

Các doanh nghiệp này có thể làm theo công thức chung dưới dạng hiệp hội. Chẳng hạn mô hình nuôi tôm giảm phát thải ở Trà Vinh. Công thức của mô hình này hoàn toàn có thể được nhân rộng, nên khi làm công tác kiểm đếm sẽ có tính đồng bộ và dễ dàng áp dụng hơn. Khi áp dụng chung quy trình, chung hiệp hội thì có thể làm giảm các chi phí như chi phí đo đạc và việc tiếp cận với tín chỉ carbon không còn mang tính nhỏ lẻ nữa.

Ông Đại cho rằng tín chỉ carbon là cuộc chơi quy mô lớn bởi các chi phí liên quan đến đo lường, báo cáo và thẩm định là rất đắt. Việc trồng rừng phải tính đến hàng triệu hecta thì mới có hiệu quả kinh tế nên đây không phải là cuộc chơi của các doanh nghiệp có dự án quy mô nhỏ. Và hiện tại đang phụ thuộc vào bên mua nhiều hơn bên bán.

Như dự án Bắc Trung bộ, không phải làm ra được bao nhiêu là có thể bán bấy nhiêu và giống như một khoản tài trợ hơn. Để có thể trở thành một thị trường thực sự và giao dịch được phải chờ đợi công nghệ mới, nền tảng mới.

“Khi đó những bên như Big 4 có thể tham gia một cách tự tin, chứ nếu một dự án của một doanh nghiệp nhỏ mà mời những đơn vị này vào thì sao họ dám bởi rất rủi ro cho uy tín của họ”, ông Đại nhận định.

Về phân bổ hạn ngạch phát thải, theo ông Minh, trên thế giới đang có hai phương pháp xác định hạn ngạch cho các doanh nghiệp. Thứ nhất là dựa vào lịch sử phát thải của doanh nghiệp. Thông thường cơ quan nhà nước sẽ dựa vào lượng phát thải của 3 năm gần nhất, từ đó làm căn cứ để phân bổ hạn ngạch và có thể phân hạn ngạch thấp hơn một chút so với lượng phát thải trung bình. Thậm chí có quốc gia còn phân cao hơn lượng phát thải trung bình tùy vào điều kiện phát triển kinh tế trong thời điểm đó.

Nhưng nếu như lấy theo lịch sử phát thải ở thời điểm hiện tại có thể không chính xác bởi giai đoạn COVID-19 hoạt động sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, việc phân bổ hạn ngạch theo đó không phù hợp với kịch bản phát triển của doanh nghiệp.

Phương pháp thứ hai là phân bổ lượng phát thải tính trên đơn vị sản phẩm, bắt buộc nhà nước phải có đầy đủ thông tin về lượng phát của từng lĩnh vực, ngành nghề và căn cứ vào đó để phân bổ hạn ngạch làm sao để đảm bảo sự phát triển của quốc gia.   

Tử Kính

FILI


Kinh tế đầu tư

Từ kinh tế tuyến tính đến kinh tế tuần hoàn: Theo đuổi tiêu chuẩn thế nào để đáp ứng SDGs?

Kinh tế đầu tư  |   VietStock  |   23/07/2024

Thế nào là tiêu chuẩn xanh vẫn còn là một phạm trù gây nhiều thắc mắc với những góc nhìn khác nhau. Việc có quá nhiều hệ thống chứng nhận khác nhau cũng là một vấn đề gây khó khăn cho sự lựa chọn theo đuổi và tiếp nhận từ cả doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Áp thuế chống phá giá với thép cán nóng nhập khẩu: Bảo vệ DN nội, người tiêu dùng có chịu thiệt?

Kinh tế đầu tư  |   VietStock  |   23/07/2024

Trong bối cảnh nguồn cung thép cán nóng nội địa đang không đáp ứng đủ nhu cầu, việc áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm thép cán nóng nhập khẩu vô hình chung sẽ tạo ra thế độc quyền. Khi đó, các doanh nghiệp (DN) khác sẽ phải mua nguyên liệu giá cao khiến sản phẩm thép Việt Nam giảm sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đặc biệt là chính người tiêu dùng Việt Nam sẽ phải mua thép giá cao.

OSVP CTCP OSEVEN 17,000
2TCORP CTCP Kỹ thuật Công trình Việt Nam 22,000
AAAI CTCP Bảo hiểm AAA 7,900
AAFC CTCP Xây dựng và Kiến trúc AA 3,000
ABBANK Ngân hàng TMCP An Bình 14,220
F88 Công ty Cổ phần Kinh doanh F88 10,200
ABCI CTCP Liên Doanh Quốc Tế ABC 21,000
ABCG CTCP Truyền thông ABC 10,000
ABSC CTCP Chứng khoán An Bình 30,000
AVICON CTCP Công trình Hàng không 23,667
ACCCO CTCP Tư vấn Kiến trúc và Xây dựng Tp. Hồ Chí Minh 11,400
VIGECAM TCT Vật tư Nông nghiệp - CTCP 15,000
ACSVN CTCP ACS Việt Nam 15,000
ADCC CTCP Xây dựng Trang trí Kiến trúc ADC 17,000
AGRC CTCP Địa ốc An Giang 11,000
AESC CTCP XNK Nông sản và Thưc Phẩm Sài Gòn 45,000
AGRIMEXCM CTCP XNK Nông sản Thực phẩm Cà Mau 10,000
AGTC CTCP Du lịch An Giang - ANGIANG TOURIMEX 9,500
AGTEX28 Công ty 28 - AGTEX 12,500
VNAI CTCP Bảo hiểm Hàng không 9,200
AIRIMEX CTCP xuất nhập khẩu Hàng không 27,000
AIRSERCO CTCP Cung ứng Dịch vụ Hàng không 14,000
ALTC CTCP Âu Lạc 10,000
VNWIND CTCP Điện Cơ Thống Nhất 55,000
ALSIMEXCO CTCP Cung ứng & XNK Lao động Hàng không Việt Nam 15,000
UAMC CTCP Cơ khí ôtô Uông Bí 10,000
AMPHARCO CTCP Dược Phẩm Việt Nam - Ampharco 15,000
AMVI CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt - Mỹ 18,000
APC1 CTCP An Phú 8,000
APLACO CTCP Nhựa cao cấp Hàng Không 14,500
SAPT CTCP Kinh doanh Thủy hải sản Sài Gòn 12,000
FLCS CTCP Chứng khoán FLC 15,000
ARTEXPORT CTCP Xuất nhập khẩu Thủ công mỹ nghệ 50,000
ARTEXTL CTCP Xuất Nhập khẩu Mỹ Nghệ Thăng Long 9,000
ASAC CTCP Tơ tằm Á Châu 11,000
ASECO Công ty cổ phần 32 27,750
BAROTEX CTCP Thương mại và Đầu tư Barotex Việt Nam 15,000
BASEAFOOD CTCP Chế biến XNK Thủy Sản Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 11,000
BBCC CTCP Xây dựng và Sản xuất Vật liệu Xây dựng Biên Hòa 20,000
BBDC CTCP Bao bì Dược 15,000
BC14 Công ty cổ phần Cầu số 14 50,000
BCRES CTCP Thương mại và Địa ốc Bình Chánh 19,000
BD10 CTCP Bạch Đằng 10 30,000
RTDC CTCP Phát triển Phát thanh Truyền hình 14,500
BDHC CTCP Thủy điện Bình Điền 10,000
BESEACO CTCP Thủy sản Bến Tre 12,000
BFIC CTCP Đầu tư Tài chính BIDV 2,500
BIANFISHCO CTCP Thủy sản Bình An 5,000
BICONSI CTCP Xây dựng Tư vấn Đầu tư Bình Dương 12,000
BIGAMEX CTCP May Bình Minh 14,000
TLD CTCP Đầu tư Xây dựng và Phát triển Đô thị Thăng Long 5,130
PHALE CTCP Sản xuất và Công nghệ Nhựa Pha Lê 21,200
EMC1 CTCP Cơ Điện Thủ Đức 11,000
EVNLC CTCP Bất động sản Điện lực Miền Trung 7,000
FPTS CTCP Chứng khoán FPT 12,000
HABECO Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội 60,000
HDBANK Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM 36,083
HTC1 CTCP Xi Măng Hà Tiên 1 16,000
HTT CTCP Thương mại Hà Tây 1,400
NCTS CTCP Dịch vụ Hàng hóa Nội Bài 77,000
PCC1 CTCP Xây Lắp Điện I 30,000
NT2 CTCP Điện Lực Dầu Khí Nhơn Trạch 2 20,500
PYMEPHARCO CTCP Pymepharco 45,000
SAB Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn 55,000
SHJC CTCP Thủy Điện Sê San 4A 10,000
TANCANG CTCP Đại lý Giao nhận Vận tải Xếp dỡ Tân Cảng 41,000
TCB Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam 22,750
THI CTCP Thiết Bị Điện 29,000
TPBANK Ngân hàng TMCP Tiên Phong 33,000
TRAPHACO CTCP Traphaco 115,500
VCSC CTCP Chứng Khoán Bản Việt 60,000
VICOTEX TCT Việt Thắng - CTCP 30,000
VIETJET CTCP Hàng Không VIETJET 113,000
VNPD CTCP Phát triển Điện lực Việt Nam 13,000
VPBANK Ngân Hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 43,000
ABT CTCP XNK Thủy Sản Bến Tre 39,900
AGF CTCP XNK Thủy Sản An Giang 2,900
BBC CTCP Bibica 51,000
BMC CTCP Khoáng Sản Bình Định 18,000
BMP CTCP Nhựa Bình Minh 94,400
CII CTCP ĐT Hạ Tầng Kỹ Thuật Tp.Hồ Chí Minh 15,350
CLC CTCP Cát Lợi 46,950
COM CTCP Vật Tư Xăng Dầu 29,450
DHA CTCP Hóa An 41,500
DHG CTCP Dược Hậu Giang 112,000
DIC CTCP Đầu Tư &Thương Mại DIC 1,300
DMC CTCP XNK Y Tế Domesco 70,000
DRC CTCP Cao Su Đà Nẵng 34,500
DTT CTCP Kỹ Nghệ Đô Thành 19,550
FMC CTCP Thực Phẩm Sao Ta 48,900
FPT CTCP FPT 128,000
GIL CTCP SXKD & XNK Bình Thạnh 31,300
GMC CTCP SX-TM May Sài Gòn 8,560
GMD CTCP Gemadept 79,000
HAP CTCP Tập Đoàn Hapaco 4,320
HAS CTCP Hacisco 9,000
HAX CTCP Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh 15,400
HBC CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình 7,250
HMC CTCP Kim Khí Tp.HCM - Vnsteel 12,150
HRC CTCP Cao Su Hòa Bình 45,350
CAG CTCP Cảng An Giang 7,900
BLSEAFOOD CTCP Thủy sản Bạc Liêu 3,900
HPPO CTCP Cảng Hải Phòng 15,000
VVMI CTCP Xi Măng La Hiên VVMI 7,500
MAS CTCP Dịch Vụ Hàng Không Sân Bay Đà Nẵng 37,000
MASECO CTCP Dịch Vụ Phú Nhuận 23,000
NDF CTCP Chế Biến Thực Phẩm Nông Sản XK Nam Định 900
NIFERCO CTCP Phân Lân Ninh Bình 20,000
PLI3 CTCP Xây Lắp III Petrolimex 14,000
PC3I CTCP Đầu tư Điện lực 3 15,000
PVB CTCP Bọc Ống Dầu Khí Việt Nam 28,900
SDMC CTCP Thanh Hoa - Sông Đà 15,000
SHAL CTCP Nhôm Sông Hồng 12,000
VCIE CTCP Xuất Nhập Khẩu Than - Vinacomin 35,000
TNC1 CTCP Thống Nhất 13,500
TTCO CTCP Du Lịch - Thương Mại Tây Ninh 11,000
VITHAICO CTCP Dây Cáp Điện Việt Thái 10,800
VMJC CTCP Chế Tạo Máy - Vinacomin 12,000
VMDCO CTCP Phát Triển Hàng Hải 7,900
VNCT CTCP Kinh Doanh Than Miền Bắc - Vinacomin 24,329
VNPE3 CTCP Dược Phẩm Trung Ương 3 21,000
VOSA CTCP Đại lý Hàng hải Việt Nam 11,000
VTFI CTCP Thương Mại & Đầu Tư VINATABA 10,000
WSC CTCP Bến Xe Miền Tây 24,538
ALT CTCP Văn Hóa Tân Bình 14,700
BPC CTCP Vicem Bao Bì Bỉm Sơn 8,600
CAN CTCP Đồ Hộp Hạ Long 38,800
DNP CTCP Nhựa Đồng Nai 20,000
DPC CTCP Nhựa Đà Nẵng 11,700
DXP CTCP Cảng Đoạn Xá 12,000
NHC CTCP Gạch Ngói Nhị Hiệp 33,000
PMS CTCP Cơ Khí Xăng Dầu 30,700
SAF CTCP Lương Thực Thực Phẩm Safoco 49,500
SDN CTCP Sơn Đồng Nai 32,000
SFN CTCP Dệt Lưới Sài Gòn 17,900
SGC CTCP Xuất Nhập Khẩu Sa Giang 109,800
SGH CTCP Khách Sạn Sài Gòn 31,700
SJ1 CTCP Nông Nghiệp Hùng Hậu 11,600
TMC CTCP Thương Mại XNK Thủ Đức 9,500
UNI CTCP Viễn Liên 8,700
VGP CTCP Cảng Rau Quả 29,000
VTC CTCP Viễn Thông VTC 9,500
ACB Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu 24,100
BBS CTCP VICEM Bao Bì Bút Sơn 10,300
BCC CTCP Xi Măng Bỉm Sơn 8,000
BTS CTCP Xi Măng Vicem Bút Sơn 5,400
BVS CTCP Chứng Khoán Bảo Việt 36,700
CJC CTCP Cơ Điện Miền Trung 25,800
CMC CTCP Đầu Tư CMC 7,500
CTB CTCP Chế tạo Bơm Hải Dương 22,000
ABI CTCP BH NH Nông Nghiệp Việt Nam 25,900
ACE CTCP Bê Tông Ly Tâm An Giang 35,800
ACSC CTCP Xây Lắp Thương Mại 2 24,000
SAFE CTCP Thực Phẩm Nông Sản Xuất Khẩu Sài Gòn 25,000
APFCO CTCP Nông Sản Thực Phẩm Quảng Ngãi 63,000
IHK CTCP In Hàng Không 14,000
BMJ CTCP Khoáng Sản Becamex 10,700
BC12 CTCP Cầu 12 11,000
BELCO CTCP Điện Tử Biên Hòa 12,500
BHHC CTCP Thủy điện Bắc Hà 10,457
BIDIPHAR CTCP Dược - Trang Thiết Bị Y Tế Bình Định 37,000
BLIC Tổng CTCP Bảo hiểm Bảo Long 4,000
BTTS CTCP Dịch Vụ Du Lịch Bến Thành 8,000
UDJ CTCP Phát triển Đô thị 9,700
BWACO CTCP Cấp nước Bà Rịa - Vũng Tàu 9,000
CFC CTCP Cafico Việt Nam 9,100
CAGIPHARM CTCP Dược Phẩm Cần Giờ 2,000
CAWASCO CTCP Cấp Thoát Nước Cần Thơ 8,500
CBSC CTCP Gang Thép Cao Bằng 25,000
CCIC CTCP Tư vấn và Đầu tư Xây dựng CCIC Hà Nội 8,500
CCHP CTCP Cảng Cửa Cấm Hải Phòng 8,500
CDJC CTCP Cầu Đuống 7,500
CECO CTCP Thiết Kế Công Nghiệp Hóa chất 10,500
CIEG CTCP Tập Đoàn Xây Dựng Và Thiết Bị Công Nghiệp 13,500
CHOLIMEX CTCP Xuất nhập khẩu và Đầu tư Chợ Lớn (CHOLIMEX) 10,500
CLMF CTCP Thực Phẩm Cholimex 20,000
CIPC CTCP Xây lắp và Sản xuất Công nghiệp 12,500
CLPI CTCP Đầu tư Cảng Cái Lân 13,000
COMA TCT Cơ khí Xây dựng - CTCP 10,500
COMIFOOD CTCP Lương Thực Thực Phẩm Colusa - Miliket 19,000
CONINCO CTCP Tư vấn Công nghệ Thiết Bị & Kiểm Định XD - Coninco 12,500
CPH CTCP Phục vụ Mai táng Hải Phòng 300
CPTP CTCP Nhiệt điện Cẩm Phả - TKV 10,000
CT3 CTCP ĐT & XD Công Trình 3 7,300
THR CTCP Đường sắt Thuận Hải 41,700
DPHC CTCP Đạt Phương 15,000
DBHP CTCP Thủy điện Định Bình 35,000
DECOFI CTCP Xây Dựng và Thiết Kế Số 1 8,500
DIC1 CTCP Đầu Tư Phát Triển Xây Dựng Số 1 10,500
DICTT CTCP Du Lịch & Thương Mại DIC 15,000
DBM CTCP Dược - Vật Tư Y Tế Đăk Lăk 26,500
DNMB CTCP Đầu Tư Xây Dựng & Vật Liệu Đồng Nai 10,000
DOPETCO CTCP Vận Tải Xăng Dầu Đồng Tháp 12,500
DVSG CTCP Kính Viglacera Đáp Cầu 12,000
EMEC CTCP Điện Cơ 12,000
EMMC CTCP Cơ Điện Vật Tư 11,500
FISHIPCO CTCP Cơ Khí Đóng Tàu Thủy Sản Việt Nam 12,500
FOOCOSA CTCP Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh 12,667
FORIPHARM CTCP Dược Trung ương 3 19,000
FPTOL CTCP Dịch vụ Trực tuyến FPT 105,000
Xem thêm...
  • Địa chỉ: Số 6 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội.
  • Điện thoại: (+84) 24 66873314
  • Email: contact@sanotc.com
Follow VinaCorp
Đã được cấp giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp số 1472/ GP - TTĐT Ghi rõ nguồn "VinaCorp" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này.
© Copyright 2008-2024 VINACORP.VN. All Rights Reserved - OTC Vietnam Corp