Bạn chưa có cổ phiếu theo dõi nào! Nhấn [+] để thêm.
Thêm mã
  • VN-Index 0.00 0 (0%)
  • HNX-Index 0.00 0 (0%)
  • UPCOM-Index 0.00 0 (0%)
Kinh tế đầu tư
Lãi suất có thể tăng nhưng không đáng ngại
Đăng 28/04/2024 | 13:22 GMT+7  |   VietStock
Chuyên gia ACBS không quá lo ngại nếu lãi suất tăng trong thời gian tới bởi mức sinh lợi có thể chưa đủ hấp dẫn và vì thị trường vẫn đang trong giai đoạn quyết tâm nâng hạng.

Lãi suất có thể tăng nhưng không đáng ngại

Chuyên gia ACBS không quá lo ngại nếu lãi suất tăng trong thời gian tới bởi mức sinh lợi có thể chưa đủ hấp dẫn và vì thị trường vẫn đang trong giai đoạn quyết tâm nâng hạng.

Lợi nhuận ngân hàng trong quý 2 khó có thể tốt hơn quý 1/2024

Trong chương trình Vietstock LIVE với chủ đề “Đọc vị kết quả kinh doanh Q1/2024 và triển vọng kinh tế Việt Nam” diễn ra chiều ngày 24/04, bà Đỗ Minh Trang - Giám đốc Trung tâm Phân tích của Công ty Chứng khoán ACB (ACBS) cho biết đến thời điểm này chưa có đầy đủ các dữ liệu của các doanh nghiệp niêm yết nhưng đặc thù chung của thị trường chứng khoán Việt Nam đó là tỷ trọng vốn hóa, lợi nhuận của ngành ngân hàng, bất động sản chiếm hơn 60% nên vẫn có thể nhìn được kết quả toàn cảnh.

Tỷ trọng lợi nhuận ngành ngân hàng trên VN-Index đã gia tăng trong suốt 8 năm vừa qua. Từ vùng khoảng 30%, đến quý 4/2023 đã tăng lên 65%. Trong đó, lợi nhuận của ngành bất động sản, xây dựng giao động từ 10 – 20% nhưng đã giảm còn 5.7% trong giai đoạn gần đây.

Theo chuyên gia ACBS, cần quan tâm nhiều đến nhóm ngân hàng để nắm bắt triển vọng VN-Index bởi sau giai đoạn khủng hoảng ngành ngân hàng năm 2012, cả ngành sau đó tốn khoảng 5 năm để xử lý các vấn đề nợ xấu và bắt đầu quay lại xu hướng tăng trưởng từ năm 2016 và đi lên một giai đoạn tương đối đều đặn. Đến nay hầu hết ngân hàng đã niêm yết và vì vậy đã vừa có sự tăng về lượng cũng như về chất.

Hiện giờ thì mới chỉ có khoảng một nửa ngân hàng công bố, nhưng theo trung tâm nghiên cứu ACBS ước tính có thể thấy rằng xu hướng tăng trưởng lợi nhuận theo quý đang có sự chững lại, và chỉ tăng khoảng 4.5% so với quý trước.

“Thường mọi người hay nhìn vào tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước, nhưng tại sao chúng tôi lại quan trọng đến con số tăng trưởng so với quý trước. Bởi ngành ngân hàng tuy có tính chu kỳ, nhưng chu kỳ của ngành này là chu kỳ của nền kinh tế, nó rất dài. Những ngân hàng thì không có tính mùa vụ mà lợi nhuận dựa trên dư nợ tăng dần theo thời gian. Chúng ta thấy sự tăng trưởng rất rõ ràng và phản ánh sức mạnh về hoạt động kinh doanh cũng như tiềm năng sinh lời của ngành ngân hàng chủ yếu so sánh với quý liền trước thay vì cùng kỳ năm trước. Nếu so với cùng kỳ năm trước, có thể vẫn thấy tăng 11-12%, nhưng nếu so trên mức tăng trưởng tín dụng cùng kỳ năm trước 12-13% thì có nghĩa là khả năng sinh lời của ngành đang giảm dần”, bà Trang giải thích.

Ở trong quý 1/2024 có thể là một quý tương đối thuận lợi đối với ngành ngân hàng cũng như TTCK bởi lãi suất đã bắt đầu giảm từ nửa cuối năm 2023 và duy trì mức thấp xuyên suốt 9 tháng vừa qua. Nhưng tăng trưởng tín dụng đến hết quý 1 chỉ đạt 1.34%. Mặc dù con số này không phải đáng thất vọng bởi thật ra quý 4 năm ngoái đã tăng gần 5%, nên đâu đó ngoài những biện pháp kỹ thuật, thì nhu cầu tăng trưởng trong quý vừa qua cũng không phải là yếu.

Nhưng với một nền lãi suất rất thấp như thế và nhiều chính sách kích thích cho vay thì lợi nhuận ngân hàng vẫn chưa thể hiện các kỳ vọng tăng trưởng của ngành. Và các yếu tố thuận lợi đấy có vẻ như đang giảm đi trong quý 2 tới, thậm chí một số yếu tố có thể trở nên khó khăn hơn trước bối cảnh Fed sẽ hạ lãi suất muộn hơn kỳ vọng.

Vì vậy, để ổn định tỷ giá VND, nền lãi suất chung có thể tăng lên trong khi những hoạt động khác chưa phát huy tác dụng và do đó triển vọng lợi nhuận quý 2 cũng khó có sự tăng trưởng tốt hơn quý 1.

Chuyên gia ACBS bà Đỗ Minh Trang tại buổi chia sẻ. Nguồn: Ảnh chụp màn hình

Lãi suất nếu tăng vẫn không quá rủi ro

Đối với tỷ lệ nợ xấu, theo bà Trang, có hai giai đoạn nợ xấu rất cao trong 3-4 năm gần đây là giai đoạn COVID-19 và giai đoạn về khủng hoảng bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN).

Khi COVID-19 xảy ra, rất nhiều hoạt động bị tắc nghẽn nhưng sự hỗ trợ từ dòng tiền xuất nhập khẩu vẫn duy trì chất lượng nợ xấu của ngân hàng. Nhưng đến giai đoạn 2023, khi mà xuất nhập khẩu và rất nhiều hoạt động khác bị ảnh hưởng do tiêu dùng thế giới chậm lại, khiến tỷ lệ nợ xấu tăng cao dần, dai dẳng hơn, không sụt giảm nhanh như quý 4/2020. Chi phí trích lập dự phòng tăng cao sẽ là tiêu điểm mà ngành ngân hàng cần xử lý trong năm 2024, đặc biệt với doanh nghiệp bất động sản.

Bên cạnh đó, số liệu ngành chứng khoán cho thấy tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước gần 73% về mặt lợi nhuận và tăng 21% so với quý liền trước. Lợi nhuận và thanh khoản của thị trường có sự tương quan chặt chẽ. Bởi khi thanh khoản lên, phí giao dịch gia tăng, phí margin tăng là những cấu phần chính tạo nên lợi nhuận công ty chứng khoán (CTCK).

Và nếu một thị trường đang trong giai đoạn “uptrend” tương đối dài thì các công ty này sẽ thu lợi nhuận từ mảng tự doanh. Đó là yếu tố củng cố và hỗ trợ lợi nhuận CTCK trong quý 1 vừa qua.

Tuy nhiên, có thể sẽ có rủi ro từ việc tăng lãi suất thời gian tới nhưng mức tăng này không đáng kể và sẽ không phương hại đến nhu cầu vay nợ để thực hiện những hoạt động kinh doanh lành mạnh của rất nhiều doanh nghiệp cũng như người dân. Và mức tăng đó chưa đủ hấp dẫn để khiến toàn bộ tiền quay trở lại dưới dạng tiền gửi tiết kiệm vào các ngân hàng. Vì vậy, kênh TTCK vẫn sẽ được hưởng lợi từ dòng tiền của nhà đầu tư cá nhân.

“Ngoài ra, chúng ta vẫn đang ở trong giai đoạn quyết tâm nâng hạng thị trường, nên sẽ có thêm thanh khoản từ các tổ chức nước ngoài, quỹ đầu tư. Tuy quý 2 có thể tương đối trầm lắng nhưng chúng tôi cho rằng thanh khoản năm 2024 rất khả quan, có thể tiệm cận mức năm 2022. Nếu trường hợp Việt Nam thực hiện thành công các bước đi để nâng hạng thị trường vào năm 2025, thanh khoản thị trường sẽ được cải thiện mạnh mẽ. Đó sẽ là yếu tố hỗ trợ cho các CTCK”, bà Trang phân tích.

Nên nhìn vào yếu tố người mua trả tiền trước, doanh thu chưa thực hiện

Nói về lợi nhuận cũng như triển vọng của ngành bất động sản, theo bà Trang, thứ nhất là sự đóng góp về doanh thu và lợi nhuận của nhóm cổ phiếu Vingroup, đặc biệt là CTCP Vinhomes (HOSE: VHM) chiếm tỷ lệ lớn với gần 100 ngàn tỷ đồng và lợi nhuận gần 30 ngàn tỷ đồng. Triển vọng của VHM phản ánh triển vọng chung của ngành.

Thứ hai là, đối với ngành bất động sản, doanh thu và lợi nhuận của kỳ hiện tại chỉ là kết quả của hoạt động mở bán trong quá khứ và vì thế đã phản ánh vào hầu hết việc tăng giá cũng như triển vọng cổ phiếu bất động sản. Việc cần quan tâm hơn đối với ngành này là hiện trạng triển khai các dự án mới, doanh số mở bán mới như thế nào.

Dựa trên kinh nghiệm của chuyên gia cho thấy doanh số mở bán mới và doanh thu chưa thực hiện là hai yếu tố mà nhà đầu tư cần nhìn vào một doanh nghiệp bất động sản để tìm kiếm cơ hội trong tương lai, hơn là chỉ nhìn vào con số doanh thu và lợi nhuận.

Theo báo cáo quý 1/2024 của CBRE, nguồn cung mở bán mới còn khá thấp, và thị trường thực sự khởi sắc lên vào cuối quý này nhưng chủ yếu tập trung ở phân khúc chung cư đô thị. Có thể thấy nhiều bài báo nói giá chung cư Hà Nội tăng nhưng chỉ chủ yếu trên thị trường thứ cấp.

Còn đối với doanh nghiệp trên thị trường sơ cấp thì lượng mở bán tương đối khiêm tốn, hơn 2,300 căn ở Hà Nội còn TPHCM chưa đến 500 căn. Trong giai đoạn 2024-2026, CBRE dự đoán nguồn cung chung cư và nhà đất ở Hà Nội có thể được mở bán thêm khoảng 64 ngàn căn, còn TPHCM thì 42 ngàn căn.

Giám đốc Trung tâm phân tích ACBS đánh giá các yếu tố mở bán, doanh số, doanh thu chưa thực hiện, người mua trả tiền trước là quan trọng. Năm 2023, khi mà thị trường bất động sản đang gặp rất nhiều vấn đề kể cả về nghĩa vụ nợ, thị trường trầm lắng, thậm chí là đóng băng... Nhưng nhìn doanh thu có thể thấy đó là giai đoạn đạt đỉnh vì là kết quả của thời gian mở bán từ năm 2021-2022 khi đó đã bán xong, bàn giao nhà và ghi nhận doanh thu.

“Cái chúng ta quan tâm đó là người mua trả tiền trước ở năm 2023 đã sụt giảm so với năm 2022”, bà Trang nói đồng thời nhận định nếu điều này không cải thiện nhiều trong các quý 1 và 2 thì lợi nhuận của các doanh nghiệp bất động sản trong năm 2024, 2025 được báo hiệu sẽ trầm lắng. Và thay vì kỳ vọng thị trường quay lại thời hoàng kim nhờ vào lãi suất thấp hay pháp lý thì nhà đầu tư nên nhìn vào những con số thực tế sẽ có câu trả lời chi tiết hơn.

Tử Kính

FILI


Kinh tế đầu tư

Đến bao giờ mới hết… lòng vòng? 

Kinh tế đầu tư  |   VietStock  |   21 giờ trước

Ngày 09/05, Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh 2023 (PCI 2023) được công bố. Có  51.5% doanh nghiệp nhận định “các sở, ngành không thực hiện đúng chủ trương, chính sách của lãnh đạo tỉnh, thành phố”, tăng so với 50.4% năm 2022; 44.7% doanh nghiệp quan sát thấy hiện tượng “chính quyền cấp huyện, thị xã không thực hiện đúng chủ trương, chính sách của lãnh đạo tỉnh, thành phố”, giảm so với 45.2% năm 2022. Đáng nói là chỉ 40.8% doanh nghiệp thấy “chủ trương, chính sách của tỉnh, thành phố đối với việc tạo thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động là ổn định và nhất quán” vào năm 2023, giảm đáng kể so với 50% năm 2022 và 53.4% năm 2021...

Chính phủ yêu cầu xây dựng cơ chế mua bán điện trực tiếp cần nghiên cứu quy định về giá, phí truyền tải

Kinh tế đầu tư  |   VietStock  |   2 ngày trước

Thường trực Chính phủ yêu cầu trong quá trình xây dựng nghị định quy định cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo với khách hàng sử dụng điện lớn cần nghiên cứu các quy định về cơ chế giá, phí truyền tải và các chi phí phát sinh khác.

OSVP CTCP OSEVEN 17,000
2TCORP CTCP Kỹ thuật Công trình Việt Nam 22,000
AAAI CTCP Bảo hiểm AAA 7,900
AAFC CTCP Xây dựng và Kiến trúc AA 3,000
ABBANK Ngân hàng TMCP An Bình 14,220
F88 Công ty Cổ phần Kinh doanh F88 10,200
ABCI CTCP Liên Doanh Quốc Tế ABC 21,000
ABCG CTCP Truyền thông ABC 10,000
ABSC CTCP Chứng khoán An Bình 30,000
AVICON CTCP Công trình Hàng không 23,667
ACCCO CTCP Tư vấn Kiến trúc và Xây dựng Tp. Hồ Chí Minh 11,400
VIGECAM TCT Vật tư Nông nghiệp - CTCP 15,000
ACSVN CTCP ACS Việt Nam 15,000
ADCC CTCP Xây dựng Trang trí Kiến trúc ADC 17,000
AGRC CTCP Địa ốc An Giang 11,000
AESC CTCP XNK Nông sản và Thưc Phẩm Sài Gòn 45,000
AGRIMEXCM CTCP XNK Nông sản Thực phẩm Cà Mau 10,000
AGTC CTCP Du lịch An Giang - ANGIANG TOURIMEX 9,500
AGTEX28 Công ty 28 - AGTEX 12,500
VNAI CTCP Bảo hiểm Hàng không 9,200
AIRIMEX CTCP xuất nhập khẩu Hàng không 27,000
AIRSERCO CTCP Cung ứng Dịch vụ Hàng không 14,000
ALTC CTCP Âu Lạc 10,000
VNWIND CTCP Điện Cơ Thống Nhất 55,000
ALSIMEXCO CTCP Cung ứng & XNK Lao động Hàng không Việt Nam 15,000
UAMC CTCP Cơ khí ôtô Uông Bí 10,000
AMPHARCO CTCP Dược Phẩm Việt Nam - Ampharco 15,000
AMVI CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt - Mỹ 18,000
APC1 CTCP An Phú 8,000
APLACO CTCP Nhựa cao cấp Hàng Không 14,500
SAPT CTCP Kinh doanh Thủy hải sản Sài Gòn 12,000
FLCS CTCP Chứng khoán FLC 15,000
ARTEXPORT CTCP Xuất nhập khẩu Thủ công mỹ nghệ 50,000
ARTEXTL CTCP Xuất Nhập khẩu Mỹ Nghệ Thăng Long 9,000
ASAC CTCP Tơ tằm Á Châu 11,000
ASECO Công ty cổ phần 32 27,750
BAROTEX CTCP Thương mại và Đầu tư Barotex Việt Nam 15,000
BASEAFOOD CTCP Chế biến XNK Thủy Sản Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 11,000
BBCC CTCP Xây dựng và Sản xuất Vật liệu Xây dựng Biên Hòa 20,000
BBDC CTCP Bao bì Dược 15,000
BC14 Công ty cổ phần Cầu số 14 50,000
BCRES CTCP Thương mại và Địa ốc Bình Chánh 19,000
BD10 CTCP Bạch Đằng 10 30,000
RTDC CTCP Phát triển Phát thanh Truyền hình 14,500
BDHC CTCP Thủy điện Bình Điền 10,000
BESEACO CTCP Thủy sản Bến Tre 12,000
BFIC CTCP Đầu tư Tài chính BIDV 2,500
BIANFISHCO CTCP Thủy sản Bình An 5,000
BICONSI CTCP Xây dựng Tư vấn Đầu tư Bình Dương 12,000
BIGAMEX CTCP May Bình Minh 14,000
TLD CTCP Đầu tư Xây dựng và Phát triển Đô thị Thăng Long 4,790
PHALE CTCP Sản xuất và Công nghệ Nhựa Pha Lê 21,200
EMC1 CTCP Cơ Điện Thủ Đức 11,000
EVNLC CTCP Bất động sản Điện lực Miền Trung 7,000
FPTS CTCP Chứng khoán FPT 12,000
HABECO Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội 60,000
HDBANK Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM 36,083
HTC1 CTCP Xi Măng Hà Tiên 1 16,000
HTT CTCP Thương mại Hà Tây 1,700
NCTS CTCP Dịch vụ Hàng hóa Nội Bài 77,000
PCC1 CTCP Xây Lắp Điện I 30,000
NT2 CTCP Điện Lực Dầu Khí Nhơn Trạch 2 21,950
PYMEPHARCO CTCP Pymepharco 45,000
SAB Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn 57,600
SHJC CTCP Thủy Điện Sê San 4A 10,000
TANCANG CTCP Đại lý Giao nhận Vận tải Xếp dỡ Tân Cảng 41,000
TCB Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam 48,500
THI CTCP Thiết Bị Điện 29,000
TPBANK Ngân hàng TMCP Tiên Phong 33,000
TRAPHACO CTCP Traphaco 115,500
VCSC CTCP Chứng Khoán Bản Việt 60,000
VICOTEX TCT Việt Thắng - CTCP 30,000
VIETJET CTCP Hàng Không VIETJET 113,000
VNPD CTCP Phát triển Điện lực Việt Nam 13,000
VPBANK Ngân Hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 43,000
ABT CTCP XNK Thủy Sản Bến Tre 34,600
AGF CTCP XNK Thủy Sản An Giang 2,300
BBC CTCP Bibica 51,000
BMC CTCP Khoáng Sản Bình Định 17,900
BMP CTCP Nhựa Bình Minh 116,000
CII CTCP ĐT Hạ Tầng Kỹ Thuật Tp.Hồ Chí Minh 16,800
CLC CTCP Cát Lợi 44,100
COM CTCP Vật Tư Xăng Dầu 33,150
DHA CTCP Hóa An 44,800
DHG CTCP Dược Hậu Giang 114,200
DIC CTCP Đầu Tư &Thương Mại DIC 1,200
DMC CTCP XNK Y Tế Domesco 66,000
DRC CTCP Cao Su Đà Nẵng 31,900
DTT CTCP Kỹ Nghệ Đô Thành 20,900
FMC CTCP Thực Phẩm Sao Ta 52,800
FPT CTCP FPT 131,000
GIL CTCP SXKD & XNK Bình Thạnh 33,000
GMC CTCP SX-TM May Sài Gòn 8,990
GMD CTCP Gemadept 83,600
HAP CTCP Tập Đoàn Hapaco 4,700
HAS CTCP Hacisco 9,580
HAX CTCP Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh 14,250
HBC CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình 7,450
HMC CTCP Kim Khí Tp.HCM - Vnsteel 11,700
HRC CTCP Cao Su Hòa Bình 47,900
CAG CTCP Cảng An Giang 12,600
BLSEAFOOD CTCP Thủy sản Bạc Liêu 3,900
HPPO CTCP Cảng Hải Phòng 15,000
VVMI CTCP Xi Măng La Hiên VVMI 7,500
MAS CTCP Dịch Vụ Hàng Không Sân Bay Đà Nẵng 32,000
MASECO CTCP Dịch Vụ Phú Nhuận 23,000
NDF CTCP Chế Biến Thực Phẩm Nông Sản XK Nam Định 900
NIFERCO CTCP Phân Lân Ninh Bình 20,000
PLI3 CTCP Xây Lắp III Petrolimex 14,000
PC3I CTCP Đầu tư Điện lực 3 15,000
PVB CTCP Bọc Ống Dầu Khí Việt Nam 29,400
SDMC CTCP Thanh Hoa - Sông Đà 15,000
SHAL CTCP Nhôm Sông Hồng 12,000
VCIE CTCP Xuất Nhập Khẩu Than - Vinacomin 35,000
TNC1 CTCP Thống Nhất 13,500
TTCO CTCP Du Lịch - Thương Mại Tây Ninh 11,000
VITHAICO CTCP Dây Cáp Điện Việt Thái 10,800
VMJC CTCP Chế Tạo Máy - Vinacomin 12,000
VMDCO CTCP Phát Triển Hàng Hải 7,900
VNCT CTCP Kinh Doanh Than Miền Bắc - Vinacomin 24,329
VNPE3 CTCP Dược Phẩm Trung Ương 3 21,000
VOSA CTCP Đại lý Hàng hải Việt Nam 11,000
VTFI CTCP Thương Mại & Đầu Tư VINATABA 10,000
WSC CTCP Bến Xe Miền Tây 24,538
ALT CTCP Văn Hóa Tân Bình 17,000
BPC CTCP Vicem Bao Bì Bỉm Sơn 9,300
CAN CTCP Đồ Hộp Hạ Long 47,700
DNP CTCP Nhựa Đồng Nai 20,100
DPC CTCP Nhựa Đà Nẵng 6,100
DXP CTCP Cảng Đoạn Xá 12,800
NHC CTCP Gạch Ngói Nhị Hiệp 30,300
PMS CTCP Cơ Khí Xăng Dầu 32,000
SAF CTCP Lương Thực Thực Phẩm Safoco 49,900
SDN CTCP Sơn Đồng Nai 29,200
SFN CTCP Dệt Lưới Sài Gòn 22,300
SGC CTCP Xuất Nhập Khẩu Sa Giang 75,000
SGH CTCP Khách Sạn Sài Gòn 26,600
SJ1 CTCP Nông Nghiệp Hùng Hậu 11,200
TMC CTCP Thương Mại XNK Thủ Đức 9,000
UNI CTCP Viễn Liên 8,500
VGP CTCP Cảng Rau Quả 24,300
VTC CTCP Viễn Thông VTC 8,600
ACB Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu 27,700
BBS CTCP VICEM Bao Bì Bút Sơn 10,200
BCC CTCP Xi Măng Bỉm Sơn 8,100
BTS CTCP Xi Măng Vicem Bút Sơn 5,500
BVS CTCP Chứng Khoán Bảo Việt 40,000
CJC CTCP Cơ Điện Miền Trung 25,800
CMC CTCP Đầu Tư CMC 7,700
CTB CTCP Chế tạo Bơm Hải Dương 21,800
ABI CTCP BH NH Nông Nghiệp Việt Nam 23,800
ACE CTCP Bê Tông Ly Tâm An Giang 35,900
ACSC CTCP Xây Lắp Thương Mại 2 24,000
SAFE CTCP Thực Phẩm Nông Sản Xuất Khẩu Sài Gòn 25,000
APFCO CTCP Nông Sản Thực Phẩm Quảng Ngãi 63,000
IHK CTCP In Hàng Không 16,000
BMJ CTCP Khoáng Sản Becamex 9,500
BC12 CTCP Cầu 12 11,000
BELCO CTCP Điện Tử Biên Hòa 12,500
BHHC CTCP Thủy điện Bắc Hà 10,457
BIDIPHAR CTCP Dược - Trang Thiết Bị Y Tế Bình Định 37,000
BLIC Tổng CTCP Bảo hiểm Bảo Long 4,000
BTTS CTCP Dịch Vụ Du Lịch Bến Thành 8,000
UDJ CTCP Phát triển Đô thị 9,700
BWACO CTCP Cấp nước Bà Rịa - Vũng Tàu 9,000
CFC CTCP Cafico Việt Nam 9,100
CAGIPHARM CTCP Dược Phẩm Cần Giờ 2,000
CAWASCO CTCP Cấp Thoát Nước Cần Thơ 8,500
CBSC CTCP Gang Thép Cao Bằng 25,000
CCIC CTCP Tư vấn và Đầu tư Xây dựng CCIC Hà Nội 8,500
CCHP CTCP Cảng Cửa Cấm Hải Phòng 8,500
CDJC CTCP Cầu Đuống 7,500
CECO CTCP Thiết Kế Công Nghiệp Hóa chất 10,500
CIEG CTCP Tập Đoàn Xây Dựng Và Thiết Bị Công Nghiệp 13,500
CHOLIMEX CTCP Xuất nhập khẩu và Đầu tư Chợ Lớn (CHOLIMEX) 10,500
CLMF CTCP Thực Phẩm Cholimex 20,000
CIPC CTCP Xây lắp và Sản xuất Công nghiệp 12,500
CLPI CTCP Đầu tư Cảng Cái Lân 13,000
COMA TCT Cơ khí Xây dựng - CTCP 10,500
COMIFOOD CTCP Lương Thực Thực Phẩm Colusa - Miliket 19,000
CONINCO CTCP Tư vấn Công nghệ Thiết Bị & Kiểm Định XD - Coninco 12,500
CPH CTCP Phục vụ Mai táng Hải Phòng 300
CPTP CTCP Nhiệt điện Cẩm Phả - TKV 10,000
CT3 CTCP ĐT & XD Công Trình 3 7,300
THR CTCP Đường sắt Thuận Hải 41,700
DPHC CTCP Đạt Phương 15,000
DBHP CTCP Thủy điện Định Bình 35,000
DECOFI CTCP Xây Dựng và Thiết Kế Số 1 8,500
DIC1 CTCP Đầu Tư Phát Triển Xây Dựng Số 1 10,500
DICTT CTCP Du Lịch & Thương Mại DIC 15,000
DBM CTCP Dược - Vật Tư Y Tế Đăk Lăk 29,300
DNMB CTCP Đầu Tư Xây Dựng & Vật Liệu Đồng Nai 10,000
DOPETCO CTCP Vận Tải Xăng Dầu Đồng Tháp 12,500
DVSG CTCP Kính Viglacera Đáp Cầu 12,000
EMEC CTCP Điện Cơ 12,000
EMMC CTCP Cơ Điện Vật Tư 11,500
FISHIPCO CTCP Cơ Khí Đóng Tàu Thủy Sản Việt Nam 12,500
FOOCOSA CTCP Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh 12,667
FORIPHARM CTCP Dược Trung ương 3 19,000
FPTOL CTCP Dịch vụ Trực tuyến FPT 105,000
Xem thêm...
  • Địa chỉ: Số 6 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội.
  • Điện thoại: (+84) 24 66873314
  • Email: contact@sanotc.com
Follow VinaCorp
Đã được cấp giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp số 1472/ GP - TTĐT Ghi rõ nguồn "VinaCorp" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này.
© Copyright 2008-2024 VINACORP.VN. All Rights Reserved - OTC Vietnam Corp